Ca mổ bắt con trong tư thế ngồi cho người mẹ mắc ung thư
“Tôi cảm thấy sự sống của bệnh nhân rất mong manh, có thể ra đi bất cứ lúc nào nhưng vẫn cố gắng gượng sức lực ít ỏi cuối cùng để đón con chào đời”, PGS Cường chia sẻ.
Mang trong mình căn bệnh ung thư, T.L.N.A. (26 tuổi, Hòa Bình) ngỡ sẽ thật khó để được đón nhận thiên chức làm mẹ. May mắn đã mỉm cười với đôi vợ chồng trẻ, sau khi kết thúc quá trình điều trị bệnh u lympho Hodgkin, 5 tháng sau, chị A. biết mình có thai.
37 tuần mang thai vất vả
Năm 2019, T.L.N.A. phải điều trị u lympho Hodgkin giai đoạn IIA với hạch cổ 2 bên, kích thước 18×37 mm, hạch trung thất 33×55 mm. Bệnh nhân này được chỉ định điều trị truyền hóa chất 5 chu kỳ.
Tháng 8/2019, bệnh tiến triển với hạch trung thất kích thước 41 mm, chị A. được thay đổi phác đồ truyền hóa chất 2 chu kỳ tiếp theo. Sau một tháng, bác sĩ đánh giá bệnh nhân đáp ứng điều trị 60% và chỉ định ra viện, tái khám 3 tháng/lần.
Tháng 3/2020, nữ bệnh nhân đến khám tại khoa Nội 6, Bệnh viện K (Hà Nội) và phát hiện thai 11 tuần, hạch cổ kích thước 7 mm, hạch trung thất 10 mm. Chị A. được bác sĩ tư vấn ra viện, theo dõi thai kỳ tại cơ sở y tế chuyên khoa sản.
Mẹ chồng và chồng bệnh nhân liên tục động viên trước ca phẫu thuật. Ảnh: BVCC.
Tiến sĩ, bác sĩ Đỗ Huyền Nga, Trưởng khoa Nội hệ tạo huyết, cho biết: “Việc mang thai trong thời điểm đang hay mới điều trị xong bệnh ung thư luôn để lại nhiều nguy cơ tiềm ẩn, ảnh hưởng sức khỏe mẹ và con. Do đó, ngay khi biết bệnh nhân A. mang thai, các bác sĩ đã tư vấn cụ thể về yếu tố nguy cơ và vấn đề cần lưu ý. Bệnh nhân này được theo dõi thai kỳ tại cơ sở y tế gần nhà và thường xuyên trao đổi thông tin với các bác sĩ”.
Khi biết tin vợ mang thai, anh N.T.V. (chồng bệnh nhân A.) chia sẻ bản thân vừa vui vừa lo lắng, cảm xúc rất khó tả. “Tôi rất lo cho bệnh tình của vợ, cô ấy sẽ yếu đi nhiều. Cuối cùng, chúng tôi quyết tâm sẽ giữ con, động viên nhau suy nghĩ tích cực và thăm khám thường xuyên, hy vọng con bình an chào đời”, anh V. nói.
May mắn, chị A.vượt qua 6 tháng đầu của thai kỳ khá nhẹ nhàng. Đến những tháng cuối, thai nhi phát triển nhanh hơn, các bác sĩ Bệnh viện K phối hợp Bệnh viện Phụ sản Trung ương (Hà Nội) tiến hành tiêm mũi trưởng thành phổi cho bé. Thai phụ nhập viện để theo dõi suốt hơn một tháng trước phẫu thuật, cố gắng kéo dài thời gian để thai nhi chào đời khỏe mạnh.
Video đang HOT
Ở tuần 36 của thai kỳ, các bác sĩ và gia đình chị A.càng lo lắng. Bởi bệnh nhân có tổn thương xương ức vị trí KLS 3-4, kích thước 4×5 cm, thể trạng yếu, ăn uống kém, khó thở khi nằm, gắng sức, phải ngủ trong tư thế ngồi.
Đặc biệt, bệnh nhân A. có dịch màng phổi dày 20 mm, khó thở, khó giao tiếp. Bệnh chưa được đánh giá chính xác có di căn hay không bởi nhiều xét nghiệm chưa thể thực hiện. Các bác sĩ Bệnh viện K đã trao đổi Bệnh viện Phụ sản Trung ương về việc phẫu thuật lấy thai và sau đó điều trị cho người mẹ. Nhiều cuộc hội chẩn được diễn ra để cân nhắc các phương án phẫu thuật, điều trị cho thai phụ.
“Bênh cạnh việc các bác sĩ sản khoa đánh giá tình hình thai nhi, tại Bệnh viện K, chúng tôi cũng theo dõi diễn tiến bệnh của người phụ nữ này. Chúng tôi đã hội chẩn kỹ giữa 2 bệnh viện để sẵn sàng xử lý các tình huống diễn ra trong mổ. Điều ê-kíp phẫu thuật của 2 bệnh viện mong muốn là sự bình an của người mẹ và em bé chào đời mạnh khỏe”, PGS.TS Lê Văn Quảng, Giám đốc Bệnh viện K, chia sẻ.
Ca mổ đặc biệt
Ngày 1/12, khi thai nhi ở tuần 37, các bác sĩ Bệnh viện Phụ sản Trung ương, trong đó có PGS.TS Trần Danh Cường (Giám đốc bệnh viện) đã trực tiếp sang Bệnh viện K hỗ trợ sinh mổ cho nữ bệnh nhân này.
Sản phụ có tràn dịch màng phổi, màng tim, do đó đặt ra nhiều thách thức trong quá trình gây mê hồi sức cho các bác sĩ. Nhân viên y tế cố gắng thực hiện gây tê tủy sống, giúp người bệnh hồi phục nhanh nhất có thể.
Ê-kíp y bác sĩ đã phẫu thuật khi sản phụ phải ngồi nghiêng, cúi người để thở. “Tôi cảm thấy sự sống của bệnh nhân rất mong manh, có thể ra đi bất cứ lúc nào nhưng vẫn cố gắng gượng sức lực ít ỏi cuối cùng để đón con chào đời. Tình mẫu tử thiêng liêng ấy khiến cả ê-kíp phẫu thuật xót xa, nghẹn ngào”, PGS.TS Trần Danh Cường nhớ lại.
Một bé gái nặng 2,7 kg chào đời an toàn, khỏe mạnh. Ảnh: BVCC.
Với PGS Trần Danh Cường, đây là ca mổ rất đặc biệt, bác sĩ mổ cho thai phụ ở tư thế ngồi, các thao tác phải đảm bảo nhanh, chính xác. PGS.TS Lê Văn Quảng cũng trực tiếp có mặt tại phòng mổ để động viên bệnh nhân và cùng Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương quyết định các vấn đề quan trọng.
Tiếng khóc của bé gái nặng 2,7 kg khiến người mẹ và ê-kíp phẫu thuật dâng trào cảm xúc. Nước mắt người mẹ lăn dài sau lời động viên của PGS Cường: “Bé khóc tốt lắm, mẹ cứ yên tâm”.
Ngay sau khi chào đời, bé được các bác sĩ chuyên ngành sơ sinh tiếp nhận cấp cứu, đưa vào lồng ấp và chuyển sang Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Ê-kíp còn lại tiếp tục hoàn thành ca mổ. Hiện em bé tự thở và bú được.
“Con đến với gia đình tôi là điều kỳ diệu nhất trong cuộc đời. Con mạnh khỏe là may mắn mà trời thương”, chồng sản phụ A. chia sẻ trong hạnh phúc vỡ òa.
Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương cảnh báo tình trạng đẻ mổ tăng cao
Ngoài lý do thai bệnh lý, ngày nay tỷ lệ chủ động mổ lấy thai theo yêu cầu cũng tăng cao. Vì áp lực từ nhu cầu của thai phụ mà bác sĩ tiến hành mổ lấy thai (dù có thể không có chỉ định).
Tỷ lệ đẻ mổ gia tăng
Ngày 18/7 trong khuôn khổ chuỗi hoạt động đặc biệt, kỷ niệm 65 năm ngày thành lập Bệnh viện Phụ sản TW (19/7/1955- 19/7/2020), PGS.TS Trần Danh Cường, Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương đã có những chia sẻ về tình trạng đẻ mổ ngày càng gia tăng.
PGS.TS Trần Danh Cường cho hay, đẻ mổ (mổ lấy thai) không chỉ tăng ở Việt Nam, đây còn là xu thế chung của thế giới.
Tại Việt Nam, tỉ lệ mổ lấy thai đang khoảng là 50%. So với các nước khác, có nước lên đến 80%, Trung Quốc khoảng 60-70% thì Việt Nam đang ở mức trung bình. Các nước Châu Âu tỉ lệ đẻ mổ thấp hơn.
Theo thống kế của Bệnh viện Phụ sản Trung ươn, giai đoạn 2010-2014, số ca đẻ mổ là 51.000/105.543 ca. Giai đoạn 2015-2019 có khoảng 68.000/110.000 ca.
Lý do tỷ lệ mổ đẻ ở BV Phụ sản Trung ương cao, PGS.TS Trần Danh Cường cho hay, do đây là bệnh viện tuyến cuối, chủ yếu là thai bệnh lý của mẹ hoặc thai nhi ở các nơi chuyển về. Có những trường hợp 'con quý con hiếm' doạ đẻ non, thụ tinh trong ống nghiệm, thai chậm phát triển trong tử cung, hay các bệnh lý của bà mẹ như tiền sản giật, rau cài răng lược... bắt buộc phải mổ lấy thai. Đây là những lý do đóng góp vào tỉ lệ mổ tương đối cao.
"Với những trường hợp này, chỉ định mổ đẻ là bắt buộc không thể làm khác. Việc mổ đẻ cũng ảnh hưởng đến việc triển khai tiếp xúc da kề da vì em bé nhỏ, bà mẹ phải chăm sóc đặc biệt"- PGS. TS Trần Danh Cường cho biết.
Ngoài ra, tỉ lệ mổ đẻ lấy thai gia tăng cũng do tác động từ xã hội. Hiện nay, hệ thống khám chữa bệnh theo yêu cầu rất phát triển. Ngoài lý do thai bệnh lý, thì ngày nay tỷ lệ chủ động mổ lấy thai theo yêu cầu cũng tăng cao. Nhiều gia đình mong muốn chọn ngày, giờ sinh con. Vì áp lực từ nhu cầu của thai phụ mà bác sĩ tiến hành mổ lấy thai (dù có thể không có chỉ định).
Ngoài ra, PGS. TS Trần Danh Cường đặc biệt lưu ý tỉ lệ mổ đẻ tăng trên các bệnh nhân có vết mổ cũ. Khi một phụ nữ đẻ con đầu lòng bằng phương pháp mổ thì con thứ 2, thứ 3 chắc chắn phải mổ tiếp. Đây cũng là nguyên nhân khiến tỷ lệ đẻ mổ tăng lên, không thể giảm đi được. Để giảm được tỉ lệ mổ đẻ, phải giảm đẻ mổ ở con so. Bên cạnh đó, phải tăng cường chuyên môn, chăm sóc thai nghén tốt, theo dõi quá trình chuyển dạ, đẻ thường.
Các biến chứng liên quan đến chuyển dạ cũng khó lường, với các trường hợp khó đẻ, các bác sĩ thường chuyển đẻ mổ vì sợ bệnh nhân chuyển biến xấu.
PGS.TS Trần Danh Cường siêu âm cho thai phụ
Đẻ thường tốt cho cả mẹ và em bé
PGS.TS Trần Danh Cường nhấn mạnh "đẻ thường tốt hơn rất nhiều". Khi đẻ thường, em bé sẽ trải qua một thời gian dài trong quá trình chuyển dạ, dịch phổi sẽ trào ra khi bé ra ngoài, tránh được tình trạng chậm tiêu dịch phổi. Sau này, hệ hô hấp của bé sẽ hoạt động tốt hơn.
Ngoài ra, khi đẻ thường, thai phụ sẽ không gặp các biến chứng của sinh mổ như gây tê màng cứng, gây mê, chảy máu vết mổ sau đẻ...
Cái lợi thứ 3, quá trình chuyển dạ sẽ kích hoạt hệ thống nội tiết của người mẹ, sau sinh mẹ có nhiều sữa hơn, thời gian phục hồi sau đẻ ngắn hơn.
"Đẻ thường có nhiều cái lợi cho cả mẹ và em bé. Tuy nhiên, thai phụ cần có sự kiên trì, hợp tác, tin tưởng vào chỉ định của bác sĩ để theo dõi quá trình chuyển dạ"- PGS.TS Trần Danh Cường cho biết. Ông cũng khẳng định, bệnh viện Phụ sản Trung ương luôn nỗ lực hết sức trong công tác giám sát chỉ định mổ đẻ, làm sao các ca chỉ định mổ đẻ chính xác nhất.
PGS.TS Trần Danh Cường cho biết, muốn giảm tỷ lệ mổ thai thì phải chăm sóc thai nghén tốt, theo dõi chuyển dạ tốt. Thai phụ phải hợp tác và bác sĩ cần kiên trì, cùng hỗ trợ, thống nhất với nhau trong suốt thai kỳ. Tuy nhiên, các bác sĩ thường bị động do thai phụ khám thai ở nhiều chỗ.
Ví dụ, ban đầu thai phụ khám ở bệnh viện, nhưng thời gian sau lại khám ở chỗ khác, cuối cùng khi gần sinh lại đến bệnh viện mới phát hiện bị tiểu đường thai kỳ. Lúc này, các bác sĩ "trở tay không kịp", bắt buộc phải đẻ mổ. Vì vậy, thai phụ nên theo dõi thai kỳ ở một nơi, để các bác sĩ nắm rõ tình hình, tư vấn, điều chỉnh phác đồ đúng thời điểm, tránh biến chứng xảy ra.
Thời tiết nắng nóng gay gắt, bà bầu có nguy cơ thiếu ối, chuyên gia chỉ cách phòng tránh Phụ nữ mang bầu đã vất vả, khi thời tiết nắng nóng thì càng mệt mỏi hơn. Vậy nắng nóng ảnh hưởng đến bà bầu như thế nào, và làm thế nào để bà bầu giữ sức khỏe trong thời tiết nắng nóng này? Theo PGS.TS Trần Danh Cường, Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương, trời nắng nóng không ảnh hưởng...