Bộ GD&ĐT sẽ tăng cường kiểm soát biên soạn sách giáo khoa
Bộ GD&ĐT sẽ tiếp tục tăng cường kiểm soát quá trình biên soạn sách giáo khoa ngay từ việc lựa chọn tác giả, biên soạn và thực nghiệm bài dạy minh họa của bản mẫu SGK.
Ngày 29/9, tại Hà Nội, Bộ GD&ĐT tổ chức Hội thảo về công tác biên soạn, xuất bản, sử dụng SGK giáo dục phổ thông.
Tăng cường kiểm soát quá trình biên soạn SGK
Ông Nguyễn Xuân Thành, Vụ trưởng Vụ Giáo dục trung học (Bộ GD&ĐT) cho biết chủ trương xã hội hóa SGK đã huy động được nhiều tổ chức cùng đông đảo các nhà giáo, nhà khoa học, chuyên gia giáo dục tham gia vào quá trình biên soạn SGK.
Hội thảo về công tác biên soạn, xuất bản, sử dụng SGK giáo dục phổ thông. Ảnh: VGP/Nhật Nam.
Cả nước có 6 nhà xuất bản (NXB) tham gia biên soạn, phát hành SGK môn học/hoạt động giáo dục các khối lớp (gồm các NXB: Giáo dục Việt Nam, Đại học Sư phạm, Đại học Sư phạm TPHCM, Đại học Quốc gia TPHCM, Đại học Vinh, Đại học Huế); 3 tổ chức biên soạn SGK (gồm: Công ty cổ phần Phát triển giáo dục Việt Nam VPBOX, Công ty cổ phần Đầu tư xuất bản thiết bị giáo dục Việt Nam VEPIC, Công ty cổ phần Đầu tư và phát triển xuất bản giáo dục Việt Nam VICTORIA). Tổng số có 1.574 tác giả tham gia biên soạn SGK cho 6 khối lớp. Trên 2/3 số tác giả tham gia biên soạn SGK có trình độ từ tiến sĩ trở lên.
Đặc biệt, chủ trương xã hội hóa SGK đã đạt được mục tiêu đề ra khi có nhiều bộ sách, chất lượng SGK tăng lên về hình thức, phong phú hơn về nội dung. Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại, bất cập trong quá trình triển khai. Đó là tình trạng một số nội dung, thuật ngữ được sử dụng trong các bản mẫu SGK chưa đảm bảo tính liên thông giữa các môn học/hoạt động giáo dục. Tiến trình nội dung bài học của các bản mẫu sách trong một môn học còn có sự chênh lệch đáng kể giữa các SGK khác nhau. Chất lượng một số bản mẫu sách còn hạn chế, trong đó, bên cạnh những lỗi về nội dung còn rất nhiều lỗi về mặt chính tả, câu từ, ngôn ngữ, hình ảnh…
Việc xem xét, thẩm định đối với một vài văn bản, ngữ liệu đưa vào SGK chưa chú ý đầy đủ các khía cạnh tác động xã hội, gây băn khoăn trong dư luận khi sách được đưa vào sử dụng. Việc thẩm định sách phải thực hiện qua nhiều vòng, nhiều đợt dẫn đến việc phê duyệt danh mục sách còn chậm gây khó khăn trong việc tổ chức lựa chọn SGK.
Nhận định rõ ưu điểm và hạn chế trong chất lượng bản mẫu SGK, cũng như việc thẩm định, phê duyệt và lựa chọn, cung ứng sách giáo khoa, Bộ GD&ĐT đã đưa giải pháp triển khai tiếp theo cho vấn đề này. Theo đó, trong thời gian tới, Bộ sẽ tiếp tục tăng cường kiểm soát quá trình biên soạn SGK theo quy định tại Thông tư số 05 ngay từ việc lựa chọn tác giả, biên soạn và thực nghiệm bài dạy minh họa của bản mẫu SGK đảm bảo chủ động về tiến độ chuẩn bị SGK theo đúng lộ trình.
Video đang HOT
Song song với đó Bộ sẽ tăng cường công tác thực nghiệm SGK, khai thác góp ý sau thực nghiệm, xin ý kiến nội bộ để tăng cường chất lượng bản mẫu SGK. Tăng cường kiểm soát chất lượng thực nghiệm bản mẫu SGK đảm bảo bài thực nghiệm đại diện cho các chủ đề trong chương trình môn học/hoạt động giáo dục, đặc biệt đảm bảo tính khả thi của các bài thực hành, thí nghiệm, bài học dự án.
Tinh giản tối đa kênh chữ, kênh hình, khai thác hiệu quả hình ảnh và ngữ liệu để đảm bảo hiệu quả bài học và giảm giá thành SGK. Đẩy nhanh tiến độ thẩm định và phê duyệt SGK, dành thời gian để địa phương nghiên cứu, lựa chọn SGK đáp ứng với điều kiện, đặc thù của từng vùng, miền.
Cần có những quyết sách để ổn định SGK
Phát biểu tại hội thảo, ông Hoàng Lê Bách, Tổng giám đốc NXB Giáo dục Việt Nam cho rằng, qua những lần đổi mới SGK tại Việt Nam có thể nhận thấy 5 vấn đề.
Một là xây dựng chương trình luôn là vấn đề gay cấn, thường gặp nhiều khó khăn trở ngại và thường bị chậm so với tiến độ dự kiến ban đầu. Sau khi Đảng và Nhà nước có chủ trương đổi mới, cải cách thì phải một thời gian khá dài sau mới có chương trình và SGK.
Hai là, việc biên soạn SGK muốn được thực hiện đúng tiến độ, có chất lượng, cần giao vai trò chủ động cho một NXB có tính chuyên nghiệp.
Vấn đề thứ 3 chính là làm SGK có tính chất đặc thù, nên cần có tính chuyên nghiệp cao. Một NXB làm SGK thực thụ phải là một đơn vị có khả năng đảm trách được mọi công đoạn của việc xuất bản SGK. Có như vậy, mới có thể có sự điều phối của một “tổng đạo diễn”, đảm bảo cho SGK có được chất lượng, đúng tiến độ và giá bán hợp lí nhất.
Vấn đề thứ 4, Tổng giám đốc NXB Giáo dục Việt Nam cho rằng, SGK là một loại hàng hóa đặc thù, thường có tác động tới tâm lí và dư luận xã hội, vì vậy cần có những quyết sách để ổn định SGK, trong đó có những quyết sách về việc tổ chức biên soạn, biên tập, thiết kế, thẩm định, phát hành…
Cuối cùng, những điều chỉnh về chiến lược chỉ đạo của Bộ GD&ĐT đối với việc xuất bản SGK là cần thiết và thường xuyên để SGK có chất lượng tốt hơn, đáp ứng yêu cầu của ngành giáo dục và xã hội về loại hình sản phẩm đặc biệt này.
Khuyến khích biên soạn SGK theo chủ trương xã hội hóa
Phát biểu tổng kết hội thảo, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Hữu Độ nhấn mạnh, Bộ GD&ĐT khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia biên soạn SGK theo chủ trương xã hội hóa, nhưng vẫn phải lấy chất lượng là số một. Thứ trưởng khẳng định, công tác biên soạn, thẩm định, phát hành, lựa chọn SGK rất quan trọng. Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về đổi mới chương trình, SGK giáo dục phổ thông nhấn mạnh, đổi mới chương trình, SGK giáo dục phổ thông nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông.
Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Hữu Độ khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia biên soạn SGK theo chủ trương xã hội hóa, nhưng vẫn phải lấy chất lượng làm đầu. Ảnh: VGP/Nhật Nam.
“Đây là bài toán vừa mới, vừa khó và chúng ta chưa có tiền lệ khi thực hiện một chương trình, nhiều bộ SGK”, theo Thứ trưởng, thời gian qua, toàn ngành giáo dục đã nỗ lực triển khai, thực hiện chủ trương này. “Chúng ta đã huy động được nhiều tác giả tham gia biên soạn SGK. Qua phản ánh của giáo viên, SGK mới dễ hiểu và dễ vận dụng triển khai trong quá trình giảng dạy”.
Thứ trưởng Nguyễn Hữu Độ cũng nhấn mạnh đến vai trò, tầm quan trọng của đổi mới giáo dục phổ thông. Theo đó, cần thống nhất nhận thức: SGK khi được biên soạn, thẩm định và phát hành đến học sinh phải bảo đảm chất lượng, chuẩn mực, giá cả hợp lý.
“Chúng ta khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia biên soạn sách giáo khoa theo chủ trương xã hội hóa, nhưng vẫn phải lấy chất lượng là số một”, Thứ trưởng nhấn mạnh. Khi đặt mục tiêu chất lượng là số một, cần chú ý đến các khâu cần được cải tiến và đổi mới: Làm bản mẫu, thẩm định và phát hành. Cùng với đó, cần chú trọng đến công tác tập huấn, bồi dưỡng giáo viên sử dụng SGK khi giảng dạy. Biến quá trình bồi dưỡng thành tự bồi dưỡng, từ đó nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo.
Liên quan đến giá SGK, Thứ trưởng nhấn mạnh, cần lưu ý đến các khâu như: Yếu tố cấu thành giá sách và ban hành định mức kỹ thuật của sách. Đổi mới lần này theo mục tiêu phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh. Việc có nhiều bộ sách nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh.
Cũng theo Thứ trưởng, cần tiếp tục kiện toàn văn bản, pháp lý. Đặc biệt, là các chính sách, cơ chế tài chính cho hội đồng thẩm định ở địa phương. Cùng với đó, cần đẩy mạnh công tác truyền thông để xã hội hiểu, chia sẻ và đồng hành cùng ngành giáo dục. Muốn vậy, các nhà xuất bản, địa phương và giáo viên cần tham gia vào công tác này để dư luận hiểu đầy đủ về đổi mới chương trình, SGK giáo dục phổ thông lần này.
Xây dựng, phát hành và sử dụng sách giáo khoa từ kinh nghiệm quốc tế
Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam đã chứng minh việc xây dựng, phát hành và sử dụng sách giáo khoa từ kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam.
Sách giáo khoa ở Việt Nam được đánh giá là đã có hình thức, nội dung tiệm cận với quốc tế.
Theo GS.TS Lê Anh Vinh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Giáo dục Việt Nam và nhóm nghiên cứu của Viện, sách giáo khoa chất lượng có thể hướng dẫn và thúc đẩy phương pháp giáo dục tích cực, giúp quá trình học tập hiệu quả hơn.
Thực tế nước ngoài
Yêu cầu xây dựng nguồn sách giáo khoa chất lượng của bất kì một nền giáo dục nào. Nghiên cứu của nhóm đã chỉ ra những nền giáo dục nổi tiếng về giáo dục như Phần Lan, Thượng Hải và Singapore là những nền giáo dục đầu tư nhiều vào việc phát triển sách giáo khoa. Tuy nhiên, việc phát triển sách giáo khoa đỏi hỏi một quy trình phức tạp với rất nhiều bước từ việc xây dựng, sản xuất, phân phối sách cho đến cách sử dụng sách giáo khoa trong các lớp học.
Từ thực tế việc phát triển sách giáo khoa ở Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Mĩ và một số nước đang phát triển, có điều kiện kinh tế xã hội gần với Việt Nam. Cho thấy, nền tảng của hầu hết các sách giáo khoa chất lượng là khung chương trình được tổ chức chặt chẽ, bao gồm nội dung về những gì học sinh được học và cách giảng dạy. Tầm nhìn và cách tiếp cận sư phạm cho mỗi sách giáo khoa ở mỗi môn học phải mạch lạc và nhất quán trong toàn bộ chương trình môn học đó.
Các mục tiêu giáo dục, việc thiết kế chương trình tổng thể hoặc chương trình môn học, và nội dung sách giáo khoa phải được cùng phát triển phù hợp, tương ứng với mức độ hiểu biết thực tế của học sinh tại mỗi giai đoạn. Sách giáo khoa quá tải về khái niệm và ngôn ngữ dễ dẫn đến những kết quả kém trong hoạt động của giáo viên và học sinh. Chương trình và sách giáo khoa quá tải với lối diễn đạt vượt quá khả năng tiếp thu và suy luận của học sinh sẽ khiến giáo viên khó có thể áp dụng được các hình thức dạy học tích cực.
Huy động sự tham gia của giáo viên có kinh nghiệm giúp cho người xây dựng chương trình và sách giáo khoa đảm bảo nội dung, cấp độ và thời gian phù hợp, để sách giáo khoa không trở nên quá tải. Từ việc soạn thảo các khung chương trình tổng thể và chương trình môn học, đến việc soạn sách giáo khoa và tài liệu giảng dạy khác, cũng như việc phát triển chương trình giảng dạy nên có sự tham gia của nhiều chuyên gia và những người trực tiếp thực hiện việc giảng dạy sách giáo khoa mới.
Ảnh minh họa/ INT.
Một số trường hợp điển hình
Một trong những đặc điểm của sách giáo khoa Toán của Singapore là việc xây dựng hệ thống chủ đề giảng dạy ngắn gọn, tập trung, không dàn trải. Các sách giáo khoa cung cấp nhiều cách tiếp cận khác nhau trong phần bài học và khối lượng kiến thức vừa đủ cho thời gian quy định cho việc học. Sách giáo khoa tại Singapore được công nhận là công cụ giúp đạt được các thành tựu về giáo dục và học thuật của đất nước này. Điều này một phần là do nền tảng chương trình tốt, trong đó có Chương trình môn Toán cấp tiểu học của Singapore. Chương trình môn Toán bao gồm các mô tả về các hoạt động dạy và học dự kiến.
Tương tự, tại Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, phương pháp giảng dạy toán học "Mô hình - Chiến lược - Ứng dụng" được giới thiệu vào cuối những năm 1990 và được đưa vào trong chương trình tổng thể môn Toán để viết sách giáo khoa đã cho thấy kết quả học tập khác biệt đáng kể giữa các học sinh sử dụng sách giáo khoa mới và những học sinh học theo sách giáo khoa cũ (Wu, 2012). Những nội dung trong chương trình môn học này cũng giúp chỉ ra cho các nhà viết sách giáo khoa và nhà xuất bản sách giáo khoa lượng thời gian giới hạn cho phép cho hoạt động dạy và học với mỗi chủ đề/bài học.
Ở nhiều nước, quy trình thẩm định và phê duyệt được thực hiện dưới hình thức ẩn danh nhà xuất bản để đảm bảo công bằng khách quan. Tại Hong Kong, Trung Quốc, tất cả các bản in của sách giáo khoa được gửi không được chứa bất kỳ tên sách hoặc thông tin nào về nhà xuất bản, tác giả, cố vấn, v.v., để nâng cao tính khách quan và công bằng trong đánh giá sách giáo khoa (Cục giáo dục, Hồng Kông, Trung Quốc 2018). Việc duy trì bảo mật thông tin những bộ sách giáo khoa đề xuất sẽ giúp thúc đẩy sự cởi mở và minh bạch giữa các bên.
Chi phí để có được sách giáo khoa không đơn giản được phản ánh qua chi phí đơn vị được tính toán cho 1 học sinh hoặc qua giá sách được niêm yết. Sách giáo khoa và cả các tài liệu học tập khác có chi phí sản xuất tương đối lớn và lặp lại định kỳ cho tất cả các hệ thống giáo dục. Hệ thống tổng thể về chi phí cho sách giáo khoa cần tính đến các yếu tố quan trọng bao gồm: Tuổi thọ của sách giáo khoa: sách càng tồn tại lâu, chi phí hàng năm đối với hệ thống giáo dục càng thấp; Số lượng sách giáo khoa cần thiết cho mỗi khối lớp; Sự cân bằng giữa số lượng sách giáo khoa có thể sử dụng lại và số lượng sách dùng một lần.
Trên thế giới, không có một mô hình cụ thể nào về mối liên quan giữa mức thu nhập quốc dân và chính sách của chính phủ liên quan đến giáo dục miễn phí. Mặc dù ở Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Châu Âu, và Bắc Mỹ, hầu hết các hệ thống cung cấp sách giáo khoa miễn phí cho tất cả học sinh ở các bậc học cơ bản, ở các nền kinh tế có thu nhập cao ở Châu Á như Hồng Kông - Trung Quốc và Singapore, chi phí sách luôn do cha mẹ chi trả. Dù theo hệ thống nào, hầu hết tất cả các quốc gia đều có thêm chính sách đảm bảo rằng các gia đình có thu nhập thấp nhất sẽ được hỗ trợ và cung cấp sách giáo khoa miễn phí. - GS Lê Anh Vinh
Hơn 1.000 tác giả biên soạn sách giáo khoa GDPT 2018 có trình độ Tiến sĩ trở lên Ngày 29/9, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức Hội thảo về công tác biên soạn, xuất bản, sử dụng sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức Hội thảo về công tác biên soạn, xuất bản, sử dụng sách giáo khoa giáo dục phổ thông và trưng bày sách giáo khoa Việt Nam và...