Biểu hiện của bệnh tim mạch giai đoạn sớm
Bệnh lý tim mạch là vấn đề thường gặp gây ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống của người bệnh, khiến cho nhiều người bệnh tử vong bất cứ lúc nào.
Nguyên nhân gây bệnh tim mạch
Bệnh tim mạch là các tình trạng liên quan đến sức khỏe của trái tim, sự hoạt động của các mạch máu gây suy yếu khả năng làm việc của tim. Các bệnh tim mạch bao gồm: các bệnh mạch máu như bệnh động mạch vành, bệnh cơ tim, rối loạn nhịp tim, suy tim…
Bệnh tim mạch gây hẹp, xơ cứng và tắc nghẽn mạch máu, làm gián đoạn hoặc không cung cấp đủ oxy đến não và các bộ phận khác trong cơ thể. Từ đó khiến các cơ quan bị ngừng trệ hoạt động, phá hủy từng bộ phận dẫn đến tử vong.
Bệnh tim mạch có thể xảy ra ở mọi độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp. Bệnh không thể chữa khỏi hoàn toàn, đòi hỏi sự điều trị và theo dõi cẩn thận (thậm chí là suốt đời), tốn kém nhiều chi phí.
Bệnh tim mạch do nhiều nguyên nhân gây ra, đặc biệt là liên quan đến các thói quen sinh hoạt hàng ngày, như:
Hút thuốc lá: Chất Nicotine và Carbon monoxide có trong thuốc lá chính là nguyên nhân gây co thắt các mạch máu, xơ vữa động mạch.
Chế độ ăn uống nhiều muối, chất béo và cholesterol.
Ít vận động, hoạt động thể dục thể thao.
Thừa cân, béo phì.
Căng thẳng kéo dài có thể làm hỏng các động mạch và làm trầm trọng thêm các yếu tố nguy cơ khác của bệnh tim.
Tăng cholesterol máu gây hình thành các mảng xơ vữa động mạch.
Tăng huyết áp có thể dẫn đến xơ cứng và dày thành các động mạch, thu hẹp các mạch máu.
Đái tháo đường: Bệnh tim là một biến chứng nguy hiểm của bệnh đái tháo đường.
Video đang HOT
Tuổi tác cao tăng nguy cơ hẹp động mạch, suy yếu hoặc phì đại động mạch.
Yếu tố gia đình (trong gia đình đã có người mắc bệnh tim).
Căng thẳng kéo dài có thể làm hỏng các động mạch và làm trầm trọng thêm các yếu tố nguy cơ khác của bệnh tim.
Triệu chứng sớm của bệnh tim
Biểu hiện của bệnh tim giai đoạn sớm thường mơ hồ. Nếu gặp những triệu chứng dưới đây, hãy tiến hành kiểm tra sức khỏe ngay:
- Xuất hiện tình trạng khó thở: xuất hiện từ từ, tăng lên khi người bệnh gắng sức, đặc biệt khi nằm xuống.
- Cảm giác bị đè nặng trong ngực, đau tức ngực: là triệu chứng thường gặp của bệnh tim, tuy nhiên cũng xuất hiện ở các bệnh lý khác như hô hấp, thần kinh.
- Cơ thể bị tích nước, mặt, bàn chân căng phù: triệu chứng phù do bệnh tim mạch thường là phù tím, phù mềm, dấu hiệu bắt đầu từ hai bàn chân kèm theo tình trạng gan to, tĩnh mạch cổ nổi.
- Thường xuyên mệt mỏi, kiệt sức: cơ thể mệt mỏi, kiệt sức khi thực hiện các hoạt động thường ngày. Đây là dấu hiệu thiếu máu đến tim, não và phổi.
- Ho dai dẳng, khò khè: tim bơm máu không đủ để cung cấp cho cơ thể khiến máu bị ứ lại. Dịch ứ ở phổi lâu ngày gây tình trạng ho mạn tính, thở khò khè.
- Chán ăn, buồn nôn: sự tích tụ của dịch trong gan, hệ thống tiêu hóa khiến người bệnh chán ăn và buồn nôn.
- Đi tiểu đêm: người bệnh suy tim sẽ đi tiểu thường xuyên vào ban đêm do sự chuyển dịch lượng nước tích tụ trong cơ thể gây phù ở nhiều bộ phận đến thận thông qua các mạch máu.
- Rối loạn nhịp tim, mạch không đều: tim đập với tốc độ nhanh hơn, đánh trống ngực hoặc đập dồn dập.
Ngoài ra, người bệnh tim có biểu hiện thở nhanh, lo lắng, lòng bàn tay đổ mồ hôi. Chóng mặt, ngất xỉu nếu người bệnh bị rối loạn nhịp tim, máu đến não bị gián đoạn.
Cách xử trí đúng nếu mắc bệnh tim
Khi gặp các biểu hiện của bệnh tim giai đoạn sớm người bệnh cần đến ngay các cơ sở y tế có chuyên khoa tim mạch.
Để chẩn đoán bệnh ngoài các biểu hiện lâm sàng các bác sĩ sẽ xem xét đến tiểu sử bệnh của gia đình; các yếu tố nguy cơ như hút thuốc, tiểu đường, béo phì, căng thẳng…; xét nghiệm thể chất, xét nghiệm máu, chụp X-quang.
Ngoài ra, một số xét nghiệm để chẩn đoán bệnh tim mạch gồm có: chụp cộng hưởng từ tim (MRI). Điện tâm đồ (ECG); máy theo dõi Holter.; Siêu âm tim – Doppler tim.; đặt ống thông tim; chụp cắt lớp vi tính tim (CT scan).
Thông qua các kết quả cận lâm sàng, bác sĩ có thể đánh giá được tình trạng các bệnh lý tim mạch. Phát hiện bệnh sớm sẽ tăng hiệu quả điều trị, hạn chế bệnh trở nặng.
Tùy thuộc vào tình trạng bệnh mà bác sĩ sẽ chỉ định phương pháp điều trị khác nhau. Một số phương pháp thường được sử dụng như: sử dụng thuốc kháng sinh đối với các trường hợp nhiễm trùng tim, các loại thuốc kiểm soát bệnh tim phụ thuộc vào loại bệnh tim mà bệnh nhân mắc phải. Khi thuốc không điều trị bệnh hiệu quả, bác sĩ sẽ có chỉ định cho bệnh nhân làm các kỹ thuật y tế hoặc phẫu thuật tim. Tùy tình trạng bệnh mà có các loại phẫu thuật phù hợp.
Người bệnh cần tuân thủ chỉ định của các bác sĩ, cần thay đổi lối sống, chế độ ăn uống ít chất béo, natri, tập thể dục nhẹ nhàng, đều đặn, tránh xa thuốc lá và rượu bia.
Căn bệnh khiến người Việt tử vong nhiều hơn ung thư
Tim mạch là bệnh lý hàng đầu khiến nhiều người Việt tử vong, với hơn 200.000 ca mỗi năm, cao hơn cả ung thư.
Trên thế giới, con số này là 20 triệu người theo số liệu cập nhật mới nhất.
GS.TS Phạm Mạnh Hùng, Viện trưởng Viện Tim mạch Quốc gia, chia sẻ bên lề Hội nghị Công tác chỉ đạo tuyến và cập nhật tiến bộ mới trong chẩn đoán, điều trị bệnh lý tim mạch, do Bệnh viện 19-8 (Bộ Công an) tổ chức ngày 10/9.
Điểm chung của các bệnh nhân trẻ bị nhồi máu cơ tim
Tại Việt Nam, theo thống kê của Bộ Y tế, mỗi năm có hơn 200.000 người Việt tử vong vì bệnh lý tim mạch, cao hơn nguyên nhân do bệnh lý ung thư (khoảng 120.000 người/năm).
"Trong 30 năm qua, theo điều tra, mỗi năm huyết áp của người Việt tăng thêm 1mmHg, tức là 1%, rất đáng sợ", Giáo sư Phạm Mạnh Hùng thông tin với VietNamNet. Tỷ lệ người lớn mắc tăng huyết áp tăng gấp 3 sau 20 năm (từ 10% năm 2000 lên 30% năm 2020).
Viện Tim mạch Quốc gia mỗi năm điều trị trên 20.000 bệnh nhân. Nếu trước đây các bệnh lý tim mạch do nhiễm trùng như thấp tim, van tim do thấp hay tim bẩm sinh chiếm tỷ lệ lớn thì nay các bệnh lý tim mạch do yếu tố nguy cơ như mạch vành, nhồi máu cơ tim... tăng lên rất nhanh.
"30 năm trước, bệnh lý mạch vành chỉ chiếm 10-15% bệnh nhân điều trị nội trú tại Viện Tim mạch thì năm 2023, trong 4.000 ca can thiệp động mạch vành có hơn một nửa là nhồi máu cơ tim cấp", Giáo sư Hùng cho hay, trong đó có nhiều người trẻ, cá biệt có những ca 24-26 tuổi.
Điều đáng chú ý, các bệnh nhân trẻ bị nhồi máu cơ tim có điểm chung về các yếu tố nguy cơ cao như nam giới, béo phì, hút thuốc lá và tiền sử gia đình có người mắc bệnh lý tim mạch sớm.
Thầy thuốc khoa Nội tim mạch, Bệnh viện 19-8, khám cho bệnh nhân.
Tại Bệnh viện 19-8, mỗi ngày khoa Nội tim mạch tiếp nhận khám tới 300 bệnh nhân. Các bác sĩ cũng thường xuyên tiếp nhận bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp (nhồi máu cơ tim), trong đó có nhiều người trẻ tuổi, được cứu sống nhờ áp dụng kỹ thuật cao.
Bên cạnh các nguy cơ truyền thống gây ra bệnh không lây nhiễm như lười vận động, hút thuốc lá, uống rượu, chế độ ăn uống, theo Giáo sư Hùng, sự gia tăng và trẻ hóa bệnh lý tim mạch còn do các yếu tố nguy cơ mới nổi liên quan đến môi trường, stress. Theo đó, stress làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch sớm hoặc tăng biến chứng trên người đã mắc bệnh lý tim mạch.
Người mắc bệnh lý tim mạch ở Việt Nam không còn phải ra nước ngoài điều trị
Đánh giá về những tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý tim mạch tại Việt Nam hiện nay, GS Phạm Mạnh Hùng cho biết hiện cả nước có 142 trung tâm thực hiện can thiệp tim mạch.
Năng lực của thầy thuốc dù đã được nâng cao dù khoảng cách trình độ giữa tuyến trên - tuyến dưới vẫn là điều cần cố gắng. Tuy nhiên, ông khẳng định người mắc bệnh lý tim mạch ở Việt Nam không phải ra nước ngoài điều trị.
PGS.TS Hoàng Thanh Tuyền, Giám đốc Bệnh viện 19-8, cho hay khoa Nội tim mạch của đơn vị này hiện cơ bản thực hiện được các kỹ thuật cao trong chuyên ngành, cứu sống nhiều bệnh nhân nguy kịch. Bệnh viện cập nhật các kỹ thuật cao hàng đầu từ các trung tâm y khoa lớn tại Việt Nam và thế giới như đốt RS điều trị rối loạn nhịp tim, lập bản đồ 3D điều trị rối loạn nhịp phức tạp... Năm 2024, bệnh viện triển khai kỹ thuật đặt stent graff động mạch chủ cấp, đây là bệnh lý rất nguy hiểm.
PGS.TS Hoàng Thanh Tuyền, Giám đốc Bệnh viện 19-8.
PGS Tuyền thông tin mới đây bệnh viện cấp cứu thành công nam bệnh nhân nhồi máu cơ tim, vào viện với tình trạng ngừng tim. Các bác sĩ trực cấp cứu lập tức bật báo động đỏ, tiến hành hồi sức tim mạch, khi bệnh nhân có nhịp tim trở lại liền được đẩy vào phòng can thiệp đặt 2 stent. Sau 5 ngày điều trị, bệnh nhân ra viện, tiếp tục tái khám theo hẹn.
Theo PGS Tuyền, bên cạnh việc tuyển dụng, đào tạo, bổ sung nguồn nhân lực chất lượng cao, đề xuất các trang thiết bị hiện đại, sự hỗ trợ chuyên môn của các chuyên gia rất quan trọng với các tuyến y tế trong lực lượng CAND. Giám đốc Bệnh viện 19-8 đánh giá buổi hội thảo có ý nghĩa không chỉ đối với đơn vị này mà còn là dịp y tế CAND được cập nhật kiến thức, kỹ thuật mới, được trao đổi học hỏi từ các chuyên gia đầu ngành, từ đó ứng dụng trong thực hành điều trị cho cán bộ chiến sĩ và phục vụ nhân dân.
Nhịp tim nhanh hay chậm, trường hợp nào nguy hiểm hơn? Xét về độ nguy hiểm, nhịp tim nhanh là nhóm bệnh lý rối loạn nhịp tim nguy hiểm hơn so với nhịp tim chậm. Theo thống kê trên các trường hợp đột tử vì bệnh lý tim mạch nguy hiểm, 8/10 ca tử vong là do nhịp tim nhanh. Thời gian gần đây, chị Thu Hoài, 58 tuổi ở Vĩnh Phúc luôn lo...