Bí ẩn kinh ngạc bên dưới lỗ khoan ‘Cổng địa ngục’ sâu 12km găm vào lớp vỏ Trái đất
Thời Chiến tranh Lạnh, cùng với cuộc chạy đua chinh phục không gian giữa các cường quốc, còn có một cuộc đua khác khám phá lòng đất, mà một trong những sản phẩm là ‘Cổng địa ngục’, dự án bí mật lớp vỏ Trái đất của Liên Xô.
Dự án thám hiểm lòng đất
Trong khi Hoa Kỳ và Liên Xô cạnh tranh trong cuộc chạy đua không gian, có một cuộc đua khác, ít được công khai đã diễn ra giữa những thợ khoan giỏi nhất của hai quốc gia. Vào cuối những năm 1950 và đầu những năm 1960, người Mỹ và người Liên Xô bắt đầu lên kế hoạch cho những nỗ lực riêng biệt để khoan sâu nhất có thể vào lớp vỏ Trái đất.
Hoa Kỳ đã thực hiện những nỗ lực đầu tiên vào những năm 1960 với tham vọng vươn tới lớp vỏ Trái đất. Bằng cách làm này, họ hy vọng sẽ thu được một số thông tin có giá trị về tuổi Trái đất, cấu tạo, các quá trình bên trong và giúp hiểu rõ kiến tạo mảng.
Dự án Siêu lỗ khoan Kola được Liên Xô khởi sự tháng 5/1970. Ảnh: Universityfox.
Những công nghệ khoan, kĩ thuật mới nhất được ứng dụng. Ảnh: Universityfox.
Liên Xô với tham vọng “người đầu tiên” trong mọi khám phá, đã đặt mục tiêu trở thành người đầu tiên đào tới trung tâm Trái đất. Dự án Kola Superdeep Borehole (Siêu lỗ khoan Kola), dân gian còn gọi với biệt danh “Cánh cổng dẫn tới Địa Ngục” hay “Giếng địa ngục”, như một phần khởi đầu của tham vọng, được Liên Xô khởi sự từ tháng 5/1970.
Đến năm 1979, lỗ khoan SG-3 của dự án đã phá vỡ tất cả các kỉ lục thế giới khác về độ sâu khoan, trong đó đánh bại lỗ khoan Bertha Rogers Hole ở Oklahoma, của Mỹ ở độ sâu 9.583 m. Và đến 1989, lỗ khoan đạt độ sâu 12.262 m và không thể khoan sâu hơn như kỳ vọng 15.000 m, do vấn đề kỹ thuật.
Cơ sở hạ tầng trên mặt đất của dự án. Ảnh: Universityfox.
Mũi khoan đã gặp phải đá nóng tới 180 độ C, là thách thức kĩ thuật lớn lúc bấy giờ, khiến những thợ khoan bó tay.
Video đang HOT
Tuy vậy đây vẫn là hố nhân tạo thẳng đứng vào loại sâu nhất thế giới, gây kinh thiên động địa lúc bấy giờ.
Đến năm 1994, sau khi Liên Xô tan rã, với nhiều lí do, dự án khoa học bị đình chỉ.
Những bí ẩn thú vị
Để đáp ứng các mục tiêu khoa học và cung cấp cái nhìn triệt để về lớp vỏ, Liên Xô đã phát triển các công cụ để thực hiện các phân tích vật lý, cũng như hóa sinh từ các mẫu địa chất. Dự án đã thu thập một lượng dữ liệu địa chất lớn, cho phép nhìn trực tiếp cấu trúc của lớp vỏ; đồng thời giúp thẩm định, làm sáng tỏ nhiều thông tin chưa từng biết đến về lớp vỏ Trái đất.
Mũi khoan đặc biệt có thể hoạt động ở độ sâu. Ảnh: Universityfox.
Dự án được nỗ lực thực hiện trong hơn 20 năm với vô vàn khó khăn. Ảnh: Universityfox.
Một trong những phát hiện đáng ngạc nhiên nhất là không có sự chuyển đổi từ đá granit sang đá bazan ở độ sâu 3 – 6 km như dự đoán theo lí thuyết “sự gián đoạn Conrad”.
Mặc dù sự gián đoạn địa chất đã được phát hiện bên dưới tất cả các lục địa, mũi khoan tại Kola chưa bao giờ gặp phải lớp bazan như dự tính. Thay vào đó, đá granit được tìm thấy kéo dài ra ngoài mốc 12 km.
Mẫu hóa thạch sinh vật phù du được phát hiện dưới lớp trầm tích. Ảnh: Universityfox.
Nghiên cứu các mẫu địa chất từ hố khoan Kola các nhà khoa học cũng phát hiện hoạt động sinh học trong những tảng đá hơn 2 tỉ năm tuổi, ở độ sâu 6 km. Bằng chứng rõ ràng nhất về sự sống là 25 loài hóa thạch sinh vật phù du cực nhỏ, được bọc trong các hợp chất hữu cơ trầm tích vẫn nguyên vẹn đáng kinh ngạc, bất chấp áp suất và nhiệt độ khắc nghiệt của môi trường.
Từ độ sâu khoảng 3.000 m, nhiệt độ tăng cao hơn dự đoán và đạt đến 180C ở đáy hố. Đây là một sự khác biệt lớn so với nhiệt độ dự kiến 100C.
Năm 1994, với nhiều lí do, trong đó có yếu tố kĩ thuật, dự án bị đình chỉ. Ảnh: Universityfox.
Lỗ khoan được bịt lại. Ảnh: Universityfox.
Một bất ngờ khác, mật độ đá bắt đầu giảm từ độ sâu 4.500 m. Quá độ sâu này, đá có độ xốp và độ thấm lớn hơn, kết hợp với nhiệt độ cao, khiến đá giống như một chất dẻo hơn là một chất rắn và khiến việc khoan gần như không thể thực hiện được.
Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng có nước ở độ sâu 12 km, mặc dù điều này trước đây được cho là không thể.
Theo năm tháng, cơ sở dự án bị bỏ hoang đã bị sụp đổ. Ảnh: Universityfox.
Nó trở thành một di tích hấp dẫn cho những người ưa khám phá. Ảnh: atlasobscura.
Một số thông tin được cho xuất phát từ những người từng tham gia thực hiện dự án, mô tả một hiện tượng có vẻ ma quái, rung rợn. Đó là việc mũi khoan bỗng nhiên quay cuồng mộ cách điên rồ, không kiểm soát.
Trong khi nghệ sĩ Hà Lan Lotte Geeven đặt ghi âm dưới đáy một hố sâu gần 9.150 m ở Đức, ghi nhận âm thanh kì lạ như “tiếng gầm của một cơn lốc xoáy” và thừa nhận, các bản ghi âm có thể được cộng hưởng do chính âm thanh thiết bị tạo ra, thì những âm thanh được cho ghi nhận ở Kolo có vẻ kì quái như tiếng rít từ địa ngục.
Một số người tin rằng cái hố đã xuyên qua thế giới ngầm, liên kết ma quỷ với thế giới này. Người dân địa phương trong khu vực nói rằng, hố sâu đến mức có thể nghe thấy tiếng la hét của những người bị tra tấn trong địa ngục, từ đó hố khoan được gọi với biệt danh ‘giếng địa ngục’.
'Xẻ' công viên xây nhà, lọt vào 'thế giới ma' mất tích 1.600 năm trước
Một dự án nhà ở tại Anh đã biến thành cuộc khai quật khảo cố kéo dài suốt nửa năm, vì các công nhân đã lọt ngay vào một thế giới công nghiệp đáng kinh ngạc cuối thời La Mã.
Khu vực khảo cổ là địa điểm thuộc một dự án nhà ở, sẽ được xây nên trong địa phận Công viên Priors Hall ở Quận Corby, Northamptonshire (Anh). Thế nhưng từ những nhát đào đầu tiên, những bức tường ma quái từ một thế giới dưới lòng đất đã lộ diện. Các nhà khảo cổ đến tiếp nhận và kết luận rằng họ đã tìm ra cả một thị trấn công nghiệp cổ đại.
Các nhà khảo cổ tại hiện trường khai quật - ảnh: Oxford Archaeology East
Họ gọi đây là "phát hiện độc nhất vô nhị". Nhiều công trình thời La Mã chiếm đóng Anh quốc từng được tìm thấy, nhưng chủ yếu là mộ cổ, nhà ở. Một khu phức hợp công nghiệp như những gì được chôn vùi dưới công viên thực sự là báu vật khảo cổ, vì giúp các nhà khoa học hiểu được trình độ công nghệ của người thời đó cũng như tái hiện chính xác cuộc sống nông thôn cổ đại.
Một phần hiện trường, nơi thế giới công nghiệp đáng kinh ngạc lộ diện - ảnh: Oxford Archaeology East
Các công trình được xây dựng khoảng cuối "thời La Mã", giai đoạn nước Anh bị quân La Mã chiếm đóng, kéo dài gần 4 thế kỷ (từ khoảng 1.600-2.000 năm về trước).
Khảo sát cho thấy cấu trúc phổ biến nhất là các lò nung kim loại, bằng chứng cho thấy công nghiệp luyện kim rất được chú trọng. Ngoài ra, còn có vô số hiện vật làm bằng xương động vật, đồ gốm và đồ kim loại được phát hiện, cả các dụng cụ lẫn trang sức. Điều này cho thấy các nghề thủ công cũng rất phổ biến. Trình độ của họ rất đáng nể so với thời kỳ đó, bởi đồ gốm và kim loại cho thấy công nghệ tạo hình cực kỳ công phu.
Toàn cảnh khu khai quật lọt thỏm giữa dự án nhà ở - ảnh: Oxford Archaeology East
Nhiều sản phẩm được tạo ra từ khu công nghiệp này sẽ phục vụ cho việc trang trí các biệt thự của nhà cầm quyền, thứ từng được tìm thấy ở khu vực lân cận từ những năm 1950.
Đặc biệt nhất là những viên gạch men được chế tác độc đáo có "chữ ký": là dấu vân tay của người làm ra chúng, hoặc một cái tên.
Tổ chức khảo cổ mang tên Oxford Archaeology East đang chịu trách nhiệm chính về việc làm vệ sinh các hiện vật, lập danh mục và gửi đi phân tích. Dự kiến sau khi khai quật xong, di tích sẽ được lấp lại, tiếp tục bảo quản trong lòng đất để các dự án hiện đại có thể mọc lên.
Vỏ Trái Đất vỡ thành 15 mảnh vì nguyên nhân bí ẩn Vỏ Trái Đất không còn là một lớp đá nguyên vẹn như thuở sơ khai, mà đã vỡ ra thành 7 mảnh lớn và 8 mảnh nhỏ, tạo nên hoạt động kiến tạo sôi động liên tục nhập và tách các lục địa. Trong nghiên cứu vừa công bố trên tạp chí khoa học Nature Communications, các nhà khoa học ở Đại học...