Báo động trẻ thừa cân béo phì
Theo Viện Dinh dưỡng quốc gia, tỷ lệ trẻ thừa cân, béo phì ngày càng gia tăng trong những năm gần đây.
Khi trẻ thừa cân, béo phì sẽ tăng nguy cơ mắc các bệnh mãn tính như: huyết áp, tiểu đường, thậm chí là dậy thì sớm…
Tỷ lệ trẻ béo phì tăng nhanh những năm gần đây. Ảnh: Bích Nhàn
Tuy nhiên, điều đáng lo ngại là tâm lý nhiều phụ huynh vẫn “chưa lo” khi con bị thừa cân, béo phì.
Bé 15 t.uổi nặng… 140kg
Mới 15 t.uổi, em M.T., ngụ huyện Long Thành đã nặng đến 140kg. Với cơ thể béo phì, mỗi lần nhập viện vì bất cứ căn bệnh nào đều là nỗi lo của cha mẹ và cả y, bác sĩ. Cách đây vài ngày, M.T. vào viện cấp cứu trong tình trạng suy hô hấp, viêm phổi.
“Ngay khi con ho, nóng sốt, gia đình đã đưa đi khám và uống thuốc tại một phòng khám tư gần nhà. Nhưng chỉ sau 2 ngày, con tôi đã phải nhập viện cấp cứu vì bệnh nặng hơn. Mỗi lần con bệnh là thường bị nặng, nằm viện cả tuần liền” – mẹ của em M.T. chia sẻ.
Thạc sĩ – bác sĩ Trần Lê Duy Cường, Phó khoa Hồi sức – tích cực – chống độc Bệnh viện Nhi đồng Đồng Nai cho biết thêm, các bác sĩ phải đặt nội khí quản, cho em M.T. thở máy vì bệnh chuyển biến nhanh và khá nặng. Dù ban đầu chỉ là viêm phế quản bình thường nhưng với cơ thể béo phì, bệnh nhi M.T. dễ vào tình trạng bệnh nặng hơn. Bác sĩ phải sử dụng thuốc kháng sinh liều cao hơn và mạnh hơn trong chữa trị.
Hầu hết, bệnh nhi nằm tại khoa đều là bệnh nhân nặng, người nhà không được vào chăm sóc nên tất cả đều do nhân viên y tế đảm nhiệm.
“Riêng bệnh nhi M.T. phải thở máy 5 ngày, bệnh mới tiến triển tốt và sức khỏe ổn định dần dần. Trong suốt những ngày chữa trị tại khoa, mỗi lần thay tã, xoay trở cho bệnh nhi, chúng tôi phải cử 4-5 người vì bệnh nhi thừa cân quá nhiều” – bác sĩ Cường nói.
Theo bác sĩ Cường, những năm gần đây, bệnh viện đã chữa trị nhiều bệnh nhân bị béo phì khiến cho bệnh nặng hơn khi mắc các bệnh như tay chân miệng, sốt xuất huyết. Năm ngoái, các bác sĩ đã tiếp nhận bé N.G.H., 2 t.uổi (ngụ phường Hóa An, thành phố Biên Hòa) bị tay chân miệng. Điều đáng nói là dù bé mới 2 t.uổi nhưng đã nặng 22kg (cân nặng chuẩn theo Tổ chức Y tế thế giới là 12kg) và phải nhập viện trong tình trạng nặng do bệnh tay chân miệng.
Video đang HOT
Sau gần 1 tuần chữa trị, dù đã cai được máy lọc m.áu, xung quanh bé H. vẫn chằng chịt các loại dây dợ từ máy thở. Các y, bác sĩ phải hút đờm liên tục cho bé. Suốt những ngày phải lọc m.áu, cả người nhà lẫn y, bác sĩ luôn trong trạng thái lo lắng.
“Khi vào viện, toàn thân bé tím tái, mệt lả và không thể lấy ven. Chúng tôi đặt nội khí quản, truyền thuốc đặc trị gamma globulin và lọc m.áu 2 chu kỳ. Tuy nhiên trong quá trình cấp cứu, bé bị ngưng tim. May mắn, bé đã qua khỏi đợt bệnh nguy hiểm đó” – bác sĩ Cường nhớ lại.
Trẻ béo phì dễ bị dậy thì sớm, mắc nhiều bệnh mãn tính
Mỗi lần tiếp nhận trẻ bị béo phì nhập viện, các y bác sĩ đều rất lo lắng và áp lực, phần vì trẻ dễ vào các đợt bệnh nặng hơn, thời gian nằm viện và chi phí chữa trị cũng đắt đỏ hơn nhiều.
Khi tiếp nhận những trường hợp trẻ béo phì nhập viện các y, bác sĩ cũng áp lực vì bệnh dễ bị nặng hơn. Ảnh: Bích Nhàn
Bác sĩ dinh dưỡng Vũ Thị Thu Hạnh, Khoa Nhi, Bệnh viện Âu Cơ cho hay, nhiều gia đình, nhất là thế hệ ông bà thường muốn con cháu phải mập mạp, mũn mĩm mới đáng yêu, khỏe mạnh và thông minh hơn.
“Đó là một suy nghĩ có phần lệch lạc và không chính xác. Thực tế cho thấy, khi trẻ bị thừa cân, béo phì sẽ gây rất nhiều hệ lụy về sức khỏe. Trẻ dễ mắc các bệnh: cao huyết áp, tăng mỡ m.áu, tiểu đường, bệnh gai đen hay ngưng thở lúc ngủ…” – bác sĩ Hạnh nhận định.
Do vậy, các bậc phụ huynh khi thấy con mình có các dấu hiệu sau thì cần nghĩ đến khả năng trẻ bị thừa cân, béo phì: bụng mập, má phính lên, ngực chảy xệ, rạn da ở bụng, ngực hay bệnh gai đen (da ở vùng cổ, bẹn, nách… bị đen do béo phì gây ra tình trạng rối loạn tăng sắc tố da).
Bác sĩ Hạnh cho biết thêm, có đến hơn 90% trẻ béo phì do dinh dưỡng không hợp lý, ăn quá nhiều so với nhu cầu; ăn nhiều chất béo, bột đường, ăn vặt, uống nước có gas… hoặc có lối sống thụ động, ít vận động…
Bác sĩ Hạnh nhấn mạnh: “Ngoài nguy cơ gây ra nhiều bệnh mãn tính, trẻ béo phì còn đối mặt với khả năng bị dậy thì sớm, ảnh hưởng đến phát triển chiều cao và tâm lý của trẻ”.
Điều đáng lo ngại nhất là tâm lý “chưa lo” của nhiều bậc phụ huynh. Bác sĩ Hạnh đã từng gặp nhiều trường hợp bệnh nhi đến khám khi đã duy trì tình trạng béo phì suốt nhiều năm liền nhưng bố mẹ lại chủ quan cho rằng, trẻ sẽ tự giảm cân khi đi học hoặc do di truyền nên không thay đổi được.
“Cũng có nhiều bậc phụ huynh biết con béo phì nhưng vì công việc bận rộn nên họ chần chừ mãi không đưa con đi khám. Trẻ béo phì càng lâu, khả năng giảm cân cho trẻ càng khó hơn nhiều” – bác sĩ Hạnh khuyến cáo.
3 bước giảm nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ mãn kinh
Bước vào thời kỳ mãn kinh, người phụ nữ thường phải đối mặt với những rối loạn về nội tiết và tâm sinh lý.
Sự rối loạn nội tiết tố sẽ kéo theo nhiều vấn đề sức khỏe khác. Một trong những nguy cơ đó là ung thư vú.
1. Nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ mãn kinh
Ung thư vú là bệnh lý ác tính hàng đầu về tỷ lệ mắc và t.ử v.ong ở nữ giới. Các yếu tố nguy cơ mắc ung thư vú được xác định bao gồm: t.uổi cao, tiếp xúc với các chất sinh ung thư trong môi trường, hút t.huốc l.á, uống rượu, thừa cân, béo phì, ít vận động và một số yếu tố di truyền.
Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ đã thống kê danh sách các yếu tố nguy cơ ung thư vú liên quan đến lối sống, trong đó có thừa cân hoặc béo phì sau khi mãn kinh. Theo cơ quan này, thừa cân hoặc béo phì sau thời kỳ mãn kinh làm tăng nguy cơ ung thư vú.
Trước khi mãn kinh, buồng trứng của phụ nữ sản xuất hầu hết estrogen và mô mỡ chỉ sản xuất một phần nhỏ tổng lượng. Sau khi mãn kinh (khi buồng trứng ngừng sản xuất estrogen), hầu hết estrogen đến từ mô mỡ. Có nhiều mô mỡ hơn sau khi mãn kinh có thể làm tăng mức estrogen và tăng nguy cơ mắc ung thư vú.
Phụ nữ thừa cân cũng có xu hướng có mức insulin trong m.áu cao hơn. Mức insulin cao hơn có liên quan đến một số bệnh ung thư, bao gồm cả ung thư vú.
Phụ nữ thừa cân hoặc béo phì sau mãn kinh dễ có nguy cơ ung thư vú.
Tuy nhiên, mối liên hệ giữa cân nặng và nguy cơ ung thư vú vẫn rất phức tạp. Cụ thể: Nguy cơ ung thư vú sau mãn kinh cao hơn ở những phụ nữ tăng cân khi trưởng thành. Đối với những phụ nữ thừa cân hoặc béo phì trước thời kỳ mãn kinh, nguy cơ thấp hơn. Lý do cho việc này vẫn chưa thực sự rõ ràng.
Cân nặng cũng có thể có tác động khác nhau đến các loại ung thư vú khác nhau. Cụ thể: Tình trạng thừa cân sau thời kỳ mãn kinh có liên quan chặt chẽ hơn đến nguy cơ mắc ung thư vú dương tính với thụ thể hormone. Một số nghiên cứu cho thấy, tình trạng thừa cân trước khi mãn kinh có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư vú ba âm tính, loại ung thư ít phổ biến hơn.
2. Các bước phụ nữ nên làm để giảm nguy cơ ung thư vú
Không có cách nào chắc chắn để ngăn ngừa ung thư vú, nhưng có những thay đổi chị em phụ nữ có thể làm để giảm nguy cơ mắc bệnh. Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, nhiều yếu tố nguy cơ ung thư vú nằm ngoài tầm kiểm soát nhưng các yếu tố nguy cơ khác có thể thay đổi được bao gồm thay đổi lối sống như vận động thể chất và duy trì cân nặng khỏe mạnh. Thực hiện những thay đổi này có thể làm giảm nguy cơ mắc ung thư vú. Các bước mà tất cả phụ nữ có thể thực hiện là:
Đạt được và duy trì cân nặng khỏe mạnh
Cả việc tăng cân và tăng cân khi trưởng thành đều có liên quan đến nguy cơ ung thư vú cao hơn sau thời kỳ mãn kinh. Phụ nữ nên duy trì cân nặng khỏe mạnh trong suốt cuộc đời và tránh tăng cân quá mức bằng cách cân bằng lượng thức ăn nạp vào với hoạt động thể chất.
Hãy hoạt động thể chất
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng hoạt động thể chất vừa phải đến mạnh có liên quan đến việc giảm nguy cơ ung thư vú, vì vậy việc hoạt động thể chất thường xuyên là rất quan trọng.
Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ khuyến cáo, người lớn nên tập ít nhất 150 đến 300 phút cường độ vừa phải hoặc 75 đến 150 phút cường độ mạnh mỗi tuần (hoặc kết hợp cả hai), tốt nhất là trải đều trong suốt tuần. Đạt hoặc vượt quá giới hạn trên là 300 phút là lý tưởng.
Hoạt động vừa phải là bất kỳ hoạt động nào khiến bạn thở mạnh như khi đi bộ nhanh. Nó làm tăng nhẹ nhịp tim và nhịp thở. Bạn có thể nói chuyện nhưng không hát được trong khi hoạt động.
Hoạt động mạnh là hoạt động được thực hiện ở cường độ cao hơn. Hoạt động mạnh làm tăng nhịp tim, đổ mồ hôi và nhịp thở nhanh hơn.
Hoạt động thể chất thường xuyên giúp giảm nguy cơ ung thư vú.
Ăn uống lành mạnh
Thực hiện chế độ ăn uống lành mạnh bao gồm nhiều loại rau, trái cây với nhiều màu sắc khác nhau, các loại đậu và ngũ cốc nguyên hạt. Đồng thời tránh hoặc hạn chế thịt đỏ và thịt đã qua chế biến, đồ uống có đường, thực phẩm chế biến sẵn, các sản phẩm ngũ cốc tinh chế. Chế độ ăn uống này cung cấp các chất dinh dưỡng quan trọng giúp phụ nữ duy trì cân nặng hợp lý và giảm nguy cơ ung thư vú.
Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ cũng cho biết, mối liên hệ giữa chế độ ăn uống và nguy cơ ung thư vú vẫn chưa rõ ràng nhưng đây là một lĩnh vực nghiên cứu đang được quan tâm. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng, chế độ ăn nhiều rau, trái cây và các sản phẩm từ sữa giàu canxi, nhưng ít thịt đỏ và thịt chế biến có thể giúp giảm nguy cơ ung thư vú.
Những ai không nên ăn khoai tây? Khoai tây là một loại thực phẩm phổ biến với nhiều giá trị dinh dưỡng, nhưng không phải ai cũng nên tiêu thụ chúng một cách thoải mái. Dưới đây là những nhóm người nên hạn chế hoặc tránh ăn khoai tây để bảo vệ sức khỏe: Những ai không nên ăn khoai tây? 1. Người bị tiểu đường Khoai tây có chỉ...