Ấn Độ: 15 triệu học sinh có nguy cơ mất trường
Các trường học tư không đạt chuẩn mà vẫn mở cửa sau hạn chót 31/3 sẽ phải chịu phạt 100.000 rupee, cộng thêm khoản phạt 10.000 rupee mỗi ngày nếu tiếp tục hoạt động.
Như vậy có khoảng 300.000 trường học với 15 triệu học sinh có thể bị ảnh hưởng bởi quyết định này và gây nên một cú sốc cho nền GD Ấn Độ.
Heera Ballabh đưa đứa con trai út men theo con lộ hẹp dài 2 km tới trường. Anh hy vọng một nền giáo dục tốt giúp bé thoát khỏi tầng lớp nghèo hèn. Tuy nhiên, ước mơ đó của Ballabh có thể sớm tắt bởi ngôi trường tư mà Pankaj, con anh đang theo học, sắp bị đóng cửa.
Đối với Pankaj và nhiều người khác, Luật Phổ cập Giáo dục t.rẻ e.m 2010, mà theo đó được tới trường là quyền cơ bản của t.rẻ e.m từ 6 đến 14 t.uổi, dường như là loại trừ họ. Theo luật này, những cơ sở tư nhân không đáp ứng được tiêu chuẩn cơ bản của một trường học sẽ phải đóng cửa trong tháng tới; các trường tư muốn tồn tại phải đáp ứng qui chuẩn tối thiểu về diện tích xây trường, lương giáo viên…
Học sinh Trường Pioneer Public có thể phải nghỉ học từ 1/4
Pankaj theo học tại Trường Pioneer Public. Đây là một trong 2.000 trường tư học phí thấp tại Thủ đô Delhi trước nguy cơ phải đóng cửa, khiến 500.000 học sinh mất chỗ học, hầu hết là học sinh tiểu học.
Trên toàn Ấn Độ, khoảng 300.000 trường, với khoảng 15 triệu học sinh, có thể phải đóng cửa. Trong khi có ý kiến cho rằng luật trên đe dọa chuyện học hành của hàng chục triệu học sinh thì cũng có ý kiến ủng hộ với lí do sẽ bảo đảm trẻ không phải tiếp nhận giáo dục chất lượng thấp.
Không giống như đa số các quốc gia khác trên thế giới, trường công áp đảo trường tư, thì ở Ấn Độ trường tư lại là sự lựa chọn của số đông phụ huynh.
Ballbah phải trả thêm vài trăm rupee mỗi tháng trong khoản t.iền lương ít ỏi với công việc gia sư để gửi con vào trường Pioneer thay vì vào một trường công lập. Mặc dù được miễn học phí, t.iền mua sách giáo khoa và có bữa trưa miễn phí, trong các trường công giáo viên thường xuyên bỏ tiết và mỗi lớp học có thể tới 80 học sinh – Ballabh cho biết. Nghiên cứu của một số tổ chức chức phi chính phủ cho thấy chất lượng dạy học ở các trường tư tốt hơn trường công.
Điểm vướng mắc lớn nhất trong việc vươn tới “chuẩn tối thiểu” của các trường tư là diện tích đất xây trường. Những chuyên gia GD cảnh báo rằng việc đóng cửa các trường chưa đạt chuẩn sẽ đẩy học sinh dồn vào các trường công vốn đã quá tải, gây thêm sức ép lên toàn hệ thống GD quốc gia.
Video đang HOT
Trong khi một số bang có cách xử trí linh hoạt với luật trên thì chính phủ trung ương quyết tâm thực thi luật. Một trong số các bang cố thu hẹp khoảng cách giữa yêu cầu của luật với nhu cầu thực tế là Gujarat, nơi đòi hỏi qui định về diện tích đất được bỏ qua và các trường học được tồn tại dựa trên thành tích giáo dục.
Tháng 4 năm ngoái, tòa án tối cao Ấn Độ đã tiếp nhận đơn kiện của nhóm trường tư đòi bãi bỏ luật này. Các trường này lập luận rằng họ cung cấp dịch vụ giáo dục rẻ hơn và tốt hơn cho những người không thể đủ tài chính gửi con tới những trường tư đắt đỏ hơn. Ví dụ học phí của Pankaj sẽ cao gấp 10 lần nếu vào học tại những trường tư “đạt chuẩn”.
Theo Bảo Chi ( Pháp luật & Thời đại/TheNational)
Tìm hướng đổi mới ngành Ngữ văn ở Việt Nam
Hôm qua 5/1 tại Trường ĐH Sư phạm Huế (TP Huế) đã diễn ra "Hội thảo khoa học quốc gia về dạy học ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam" do Bộ GD-ĐT tổ chức, thu hút hàng trăm nhà khoa học, giáo viên, nghiên cứu về văn đến tham dự.
Đến dự hội thảo, có TS. Nguyễn Vinh Hiển - Thứ trưởng Bộ GD&ĐT và lãnh đạo tỉnh TT-Huế, ĐH Huế và các trường thành viên ĐH Huế. Điều bất ngờ là số lượng khách đến tham dự đã tăng đột biến khi vượt quá số người mời vì sự quan tâm đến tính chất hội thảo.
Các vấn đề chính đã được trình bày tại hội thảo đáng chú ý như: "Dạy học ngữ văn trong nhà trường Việt Nam - Hiện trạng, hướng phát triển và những vấn đề liên quan"; "Một số vấn đề về đ.ánh giá chương trình, sách giáo khoa (SGK) hiện hành và đề xuất định hướng biên soạn chương trình, SGK mới"; "Tiếp tục hoàn thiện đổi mới chương trình và phương pháp dạy học ngữ văn"; "Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng giáo viên ngữ văn hiện nay - Thực trạng và giải pháp"...
Ngổn ngang bất cập của ngành Ngữ văn trong nền giáo dục nước nhà
Theo Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển, chương trình giáo dục phổ thông nói chung và chương trình, SGK Tiếng Việt/Ngữ văn nói riêng đã thực hiện được 10 năm đang bộc lộ những hạn chế, bất cập, cần phải xem xét và thay đổi.
Có thể thấy, Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2010-2020 và Chương trình hành động của Chính phủ đã xác định một trong các giải pháp phát triển giáo dục là: "Trên cơ sở đ.ánh giá chương trình giáo dục phổ thông hiện hành và tham khảo chương trình tiên tiến của các nước, thực hiện đổi mới CT và SGK từ sau năm 2015 theo định hướng phát triển năng lực học sinh, vừa đảm bảo tính thống nhất trong toàn quốc, vừa phù hợp với đặc thù mỗi địa phương".
Điều kiện thuận lợi hơn là các dự thảo đề án Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam và đề án Đổi mới chương trình và SGK sau 2015 cũng đã được soạn thảo và tích cực hoàn thiện. Đây chính là những cơ sở pháp lý và vững chắc cho việc chuẩn bị đổi mới, phát triển chương trình môn học.
Bên cạnh đó, chương trình và SGK hiện hành đã thực hiện trong một thời gian khá dài (5 năm đối với lớp 12 và 11 năm đối với lớp 1 và lớp 6) đủ để giáo viên và các cơ quan chỉ đạo dạy học nhìn thấy rõ hơn những ưu điểm cũng như hạn chế của nó. Sau nhiều lần thay đổi, kinh nghiệm và trình độ xây dựng phát triển chương trình giáo dục của Việt Nam đã có nhiều tiến bộ; một số phương diện đã cập nhật được với trình độ quốc tế và khu vực. Lý luận phát triển chương trình và cơ sở vật chất đã có nhiều bước tiến so với các lần thay đổi trước, kể cả lần gần đây nhất. Và sự mở rộng giao lưu quốc tế đã tạo ra nhiều cơ hội, điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận tư liệu dạy học - các phương pháp dạy học tiên tiến - khoa học đ.ánh giá hiện đại và kinh nghiệm phát triển chương trình và SGK.
Hơn 500 người là đại biểu, giáo viên, học sinh, sinh viên quan tâm đến ngành Ngữ văn đã đến dự hội thảo
Mục đích của Hội thảo lần này hướng đến 2 mục đích lớn là: 1. Đ.ánh giá ưu nhược điểm của chương trình, SGK hiện hành - xem xét phương pháp dạy học và kiểm tra đ.ánh giá kết quả học tập của HS cần có gì khắc phục - Từ việc phát hiện, bồi dưỡng HS giỏi đến bồi dưỡng giáo viên và nhất là xem xét việc đào tạo ở các trường sư phạm đã đáp ứng được yêu cầu đổi mới dạy học ở nhà trường phổ thông hay chưa nhằm đề xuất giải pháp giúp cơ quan chỉ đạo dạy học, giáo viên và các trườngđiều chỉnh có hiệu quả việc dạy học Ngữ văn ngay trong những năm tới. 2. Từ việc nhận thức bối cảnh và những yêu cầu mới, Hội thảo bước đầu nêu lên những định hướng phát triển của chương trình môn học, từ đó bàn bạc và góp ý kiến cho việc chuẩn bị điều chỉnh, xây dựng lại chương trình, SGK môn học Ngữ văn cho giai đoạn sau 2015.
Về cách đổi mới Ngữ văn trong thời gian tới, Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển đã nêu ra khó khăn, thách thức cần phải vượt qua. Cụ thể là chương trình và SGK Ngữ văn theo yêu cầu mới đặt ra nhiều vấn đề không dễ giải quyết. Trước hết là phải tập trung năng lực người học, coi trọng khả năng "làm được", "vận dụng được" những gì đã học để giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống, qua đó mà phát triển tư duy, óc sáng tạo.
Trong khi thực trạng giáo dục nói chung và dạy học môn Ngữ văn nói riêng ở nước ta đang có nhiều hạn chế, bất cập thì điều kiện cải thiện tình hình cũng có nhiều khó khăn. Đặc biệt là về cơ bản, nước ta còn nghèo, các cơ sở, vật chất, thiết bị, trường lớp... chưa thể đáp ứng các đòi hỏi của dạy học hiện đại, nhất là về phương pháp dạy học và kiểm tra, đ.ánh giá. Chính sách, chế độ cho giáo viên còn chưa thỏa đáng, giáo viên còn gặp nhiều khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần nhất là ở các vùng sâu vùng xa. Trong khi, tốc độ phát triển và nhu cầu học tập của người dân ngày càng tăng, sĩ số/đầu lớp khó giảm, tạo ra mâu thuẫn giữa yêu cầu về số lượng và chất lượng giáo dục.
Chất lượng đào tạo bồi dưỡng giáo viên còn nhiều bất cập; đầu vào của các trường sư phạm ngày càng có chất lượng thấp, nhất là các môn khoa học xã hội, trong đó có môn ngữ văn. Học sinh không thích học văn, giáo viên không nhiệt tình dạy văn, sinh viên không muốn học ngành văn; giáo trình đào tạo sư phạm Ngữ văn vẫn còn lạc hậu, chưa đáp ứng được những yêu cầu mới... tạo thành một vòng luẩn quẩn, tác động lẫn nhau làm cho môn học này nhiều nơi trở nên thiếu sinh khí.
Và vấn đề chưa đào tạo và phát triển được một đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp về xây dựng, thiết kế, phát triển chương trình môn học. Phần lớn vẫn là kiêm nhiệm, làm theo hợp đồng, nghề tay trái... Nhiều người tham gia làm chương trình và viết SGK nhưng chưa có điều kiện nghiên cứu kỹ, chưa đủ năng lực đáp ứng yêu cầu của nghề làm chương trình và SGK theo đúng nghĩa.
Những hạn chế của SGK Ngữ văn tại Việt Nam đa số được đ.ánh giá là còn rất "cứng nhắc" - không vận động kịp với thế giới đang phát triển từng ngày.
Đặc biệt, hội thảo đã đ.ánh giá SGK Ngữ văn dành cho Trung học hiện nay còn nhiều hạn chế. Cụ thể là: Nhiều bài học, nhất là ở các lớp trên nặng về lý thuyết, ít có tác dụng rèn luyện kỹ năng cho HS; Một số nội dung còn cao so với trình độ nhận thức HS; Thời lượng dành cho một số nội dung còn chưa hợp lý và hầu hết các tác phẩm văn học không phù hợp với tâm lý - xu hướng đọc sách của HS hiện nay, do đó không khơi gợi được hứng thú học tập môn văn của HS.
"Làm thế nào để môn học Ngữ văn xứng đáng với vị trí và tầm quan trọng của nó, thực sự là một thách thức lớn mà vai trò quyết định thuộc về đội ngũ các nhà giáo, các tác giả xây dựng chương trình và SGK" - Thứ trưởng trăn trở.
Tìm phương pháp đổi mới ngành học có "tuổi thọ" cao nhất Việt Nam
Theo PGS.TS. Đỗ Ngọc Thống - Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, Ngữ văn là môn học có "tuổi thọ" cao nhất ở nhà trường phổ thông. Suốt hàng ngàn năm dưới chế độ phong kiến, khái niệm "đến trường", "đi học" chủ yếu là học Ngữ văn. Trước hết là học lễ nghĩa và sau đó là để biết đọc, biết viết, từ đó mà học đạo lý, luân lý, hình luật, chính trị, triết lý...
Có 3 vấn đề cần chú ý trong xác định một chiến lược dạy học nói chung và dạy Ngữ văn nói riêng, theo PGS Thống là: Người giáo viên cần biết tự thay đổi liên tục để thích nghi với những biến động của xã hội. Tự học và học suốt đời là một yêu cầu thực sự đối với mọi người, nhất là trí thức - những người thầy đứng trên bục giảng.
Dạy học Ngữ văn cần tập trung hình thành cho HS phương pháp học và học phương pháp học. Phương pháp dạy học phải tạo cho HS tính hiếu kỳ, tò mò và sự đam mê để họ tự đi tìm và lý giải. qua đó mà hình thành năng lực. Không nhồi nhét kiến thức, không bắt nhớ máy móc, cần biết quên cái cụ thể, chi tiết; chỉ nhớ cách làm, cách xử lý vấn đề... giúp HS tự học, tự khám phá, tự kích thích sáng tạo. Giờ văn học trước hết hãy giúp HS niềm yêu thích, say mê văn chương, mong muốn tìm tòi, tìm hiểu cái hay, cái đẹp của thế giới nghệ thuật rồi sau đó mới là những yêu cầu khác.
Nhà trường phổ thông trong giai đoạn tới không chỉ chú ý khả năng tư duy loogic, biện chứng... mà cần lưu ý hình thành "khả năng suy tưởng, sự mẫn cảm", những "vẻ đẹp thẩm mỹ và xúc cảm". Trong thế giới hiện đại, điều đó còn quan trọng hơn cả tư duy phân tích - lôgic. Yêu cầu này là hết sức đúng với bản chất của môn Ngữ văn.
Nhiệm vụ chính sẽ đặt lên mỗi một bản thân các nhà giáo Ngữ văn, các nhà biên soạn chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn. Làm thế nào để phát triển Ngữ văn đúng với quỹ đạo nó đi trước đây không hề là một điều đơn giản.
Về vấn đề đề xuất định hướng biên soạn chương trình, SGK mới, GS.TS. Nguyễn Minh Thuyết - Chủ tịch Hội đồng bộ môn Ngữ văn nêu lên chúng ta cần tham khảo cấu trúc mới của một số sách giáo khoa nước ngoài. Ví dụ như trong sách giáo khoa Ngôn ngữ tiểu học của Columbia thì mỗi tài liệu gồm nhiều mô-đun; mỗi mô-đun do một số bài học cấu thành; và mỗi bài học được chia thành các phần với những mục tiêu khác nhau. Mỗi phần gồm 3 loại hoạt động: Các hoạt động chính - Các hoạt động thực hành - Các hoạt động ứng dụng. Sau mỗi phần, HS được đ.ánh giá để ghi nhận sự tiến bộ của mình.
Riêng sách giáo khoa Ngữ văn cấp THPT của Hàn Quốc (từ lớp 11) có 6 môn tự chọn với 6 cuốn sách giáo khoa là: Văn học - Quốc ngữ trong sinh hoạt - Đọc - Viết - Nói - Ngữ pháp. Một điểm nhìn để tiếp cận nước ngoài nữa là vấn đề so sánh chương trình môn Ngữ văn của Việt Nam và môn tiếng Anh nghệ thuật của bang California (Mỹ)...
Để kết lại, ý nghĩa của môn Ngữ văn được Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển nhấn mạnh như một sự ghi nhớ đối với toàn thể các thầy cô giáo, học sinh: "Môn Ngữ văn góp phần rất lớn nhằm hình thành và phát triển các năng lực chung cũng như góp phần bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và các phẩm chất cao đẹp của người học. Chính vì thế, không có bất cứ nước nào coi nhẹ chương trình môn học này".
Đại Dương
Theo dân trí
Ai có trách nhiệm cứu bong bóng ĐH"? Có nhiều ý kiến xung quanh đề tài "giải cứu bong bóng ĐH" nhưng chưa ai nhắc đến người đã ký quyết định cho mở trường ĐH, CĐ ngoài công lập. Vì thế trong cuộc khủng hoảng bong bóng giáo dục này, Nhà nước không nên "mặc cho nó chết" - mà có trách nhiệm vực khối trường giáo dục bậc cao tư...