10 dự báo giáo dục đại học Việt Nam năm 2016
Phạm Hùng Hiệp – nghiên cứu sinh ngành Quản trị kinh doanh, Đại học Văn hóa Trung Hoa – chia sẻ với Zing.vn những dự báo cá nhân về giáo dục đại học của Việt Nam trong năm 2016.
1. Tuyển sinh đại học tiếp tục là điểm nóng
Quy chế tuyển sinh của Bộ GD&ĐT sẽ có nhiểu điểm mới và cải tiến hơn so với năm 2015. Nhưng về cơ bản, Bộ vẫn chưa thể tìm ra lời giải rốt ráo cho bài toán “chất lượng” (bài thi) và “độ tin cậy” (đảm bảo tính chính xác và công bằng).
Sẽ vẫn có những khó khăn không lường trước xuất hiện và gây nên một vài khủng hoảng nhỏ trước, trong và sau kỳ thi.
Trong bối cảnh đó, những trường đại học có chính sách tuyển sinh thông minh, hài hoà được với môi trường chính sách biến động và dẫn dắt được tâm lý, nhu cầu của học sinh, phụ huynh hoặc áp dụng khôn khéo ứng dụng của marketing hiện đại như online marketing, content marketing, personalized marketing, SEO…, sẽ thu hút được cả số lượng lẫn chất lượng sinh viên tuyển mới.
Thí sinh sau khi kết thúc kỳ thi đại học. Ảnh: Hoàng Hà.
2. Các trường cao đẳng, trung cấp tiếp tục “sa lầy”
Do chính sách tuyển sinh 2015 có phần cởi mở đối với đại học, các trường cao đẳng, trung cấp gánh chịu hậu quả sụt giảm chưa từng thấy.
Tình trạng này có thể tiếp tục tiếp diễn trong năm 2016, kể cả trong trường hợp Bộ GD&ĐT đã tính đến những phương án hỗ trợ như cấm hay hạn chế trường đại học tuyển sinh các hệ cao đẳng, trung cấp.
Khủng hoảng chung sẽ chỉ dịu dần trong một vài năm tới khi một số trường cao đẳng, trung cấp buộc phải đóng cửa và thái độ của học sinh, phụ huynh về bậc học này khác đi.
Tuy vậy, dù trong giai đoạn nào, các trường cao đẳng, trung cấp ở khu vực phía Nam cũng “dễ thở” hơn so với phía Bắc do quan điểm về việc học của người Nam ít nặng nề bằng cấp hơn.
3. Đào tạo online phát triển
Hình thức này sẽ có nhiều cách thức triển khai chất lượng hơn, rẻ hơn và hướng tới “phân khúc” mới hơn.
Hoà chung xu hướng phát triển MOOCs (các khóa học đại trà trực tuyến) và e-learning trên thế giới, đào tạo online tiếp tục là mảnh đất màu mỡ cho các nhà giáo dục, kể cả các nhà giáo dục từ nước ngoài, tham gia thi thố tài năng và triển khai ý tưởng.
Trong năm 2016, những cách thức triển khai e-learning sáng tạo tương tự TOPICA, FUNiX có thể tiếp tục ra đời. Các “phân khúc” người học mới như người đi làm, về hưu, người trở về nước sau lao động xuất khẩu… sẽ được khai phá với những nhà cung cấp dịch vụ đào tạo online mới.
Video đang HOT
2016 cũng là năm Bộ GD&ĐT sẽ ban hành quy định mới về đào tạo cấp bằng từ xa thay cho quy định cũ đã quá lỗi thời (ban hành năm 2003).
4. Số lượng du học sinh tiếp tục tăng
Mặc cho kinh tế khó khăn, số lượng gia đình Việt Nam cho con em du học tiếp tục tăng mạnh. Bên cạnh các điểm đến truyền thống như Anh, Úc, Mỹ, Đức, Pháp, Nhật; những nơi mới rẻ hơn như Đài Loan, Thái Lan, Malaysia sẽ là lựa chọn phù hợp cho những gia đình có điều kiện kinh tế vừa phải.
Tổng chi phí cho việc “nhập khẩu giáo dục đại học” của Việt Nam sẽ vượt đáng kể mức 3 tỷ USD hiện nay.
5. Thị trường đại học liên kết quốc tế bị thu hẹp
Sau nhiều năm tăng trưởng, khu vực đại học liên kết quốc tế bắt đầu chững lại trong năm qua và sẽ tiếp tục gặp khó khăn trong năm tới.
Một số chương trình liên kết, thậm chí sẽ phải dừng tuyển sinh hoặc đóng cửa vì thiếu sinh viên. Các dự báo số 1, 3, 4 cùng sự chững lại của dân số ở độ tuổi học đại học là nguyên nhân trực tiếp tác động lên khu vực này.
6. Kiểm định chất lượng theo chuẩn quốc tế
Sẽ thêm nhiều trường đại học tham gia đánh giá, kiểm định chất lượng theo các chuẩn quốc tế. Trong khi hệ thống đánh giá, kiểm định chất lượng do Bộ GD&ĐT chủ trì vẫn còn quá nhiều bất cập, các trường có tầm nhìn xa sẽ không chờ đợi.
Họ chủ động tham gia sân chơi lớn cùng thế giới, bên cạnh các sân chơi quốc tế đã có sự hiện diện của đại diện Việt Nam như ABET, AUN, QS, CDIO….
7. Tiêu chuẩn đánh giá kết quả khoa học theo các chuẩn quốc tế như ISI, Scopus tiếp tục được cộng đồng khoa học thừa nhận.Sự thừa nhận này có thể được thể hiện qua việc nhiều chính sách trước đây mới dừng ở mức độ khuyến khích đăng trên các tạp chí thuộc danh mục ISI, Scopus nay chuyển sang thành bắt buộc.
Sự thừa nhận cũng có thể lan sang ngành nghiên cứu về khoa học xã hội – nơi vốn có mức độ quốc tế hoá chậm hơn các ngành khoa học tự nhiên, công nghệ và y dược.
8. Sự tham gia tích cực và hiệu quả của xã hội dân sự vào việc phản biện, góp ý các chính sách. Cùng với sự phát triển của mạng xã hội và sự cải cách không ngừng của báo chí chính thống theo hướng chuyên nghiệp hơn, những sáng kiến, đóng góp của các nhóm, cá nhân nghiên cứu độc lập với nhà làm chính sách sẽ có điều kiện phát triển nhiều hơn trong năm 2016.
Cũng không loại trừ khả năng thế hệ lãnh đạo mới của ngành, với nhận thức sâu sắc hơn về vai trò cùa truyền thông xã hội, sẽ giúp sự tham gia này trở nên rõ ràng và hiệu quả hơn.
9. Tình trạng thiếu hụt nhân lực khoa học trình độ cao tiếp tục là vấn đề đối với các trường đại học trong cả nước.
Bên cạnh việc chảy máu chất xám sang các nước phát triển và khu vực tư nhân trong nước, năm 2016, với việc Cộng đồng kinh tế ASEAN chính thức hình thành, các trường đại học trong cả nước còn phải đối đầu với cạnh tranh từ phía các trường đại học, doanh nghiệp cũng rất năng động trong khu vực.
10. Các phương pháp dạy – học hiện đại vốn đã cực kỳ phổ biến tại đại học nước ngoài như kiến tạo (contructivism), học tập qua dự án (project based learning) hay học tập kết hợp (blended learning) tiếp tục không có chỗ đứng trong giảng đường đại học Việt Nam.
Thực trạng này chắc sẽ còn tiếp diễn một vài năm nữa cho đến khi nhiều trường ý thức rõ hơn vai trò của phương pháp dạy – học mới trong việc cạnh tranh với đối thủ và thu hút người học.
Theo Zing
Một năm nhìn lại tự chủ đại học
Năm 2015 có nhiều sự kiện nổi bật trong giáo dục ĐH. Riêng về mặt tự chủ, chúng ta đã có những bước tiến nào trong việc phát triển chính sách và những điều đó có ý nghĩa gì?
Vấn đề tự chủ đã được nêu ra lần đầu vào năm 2005 trong Luật Giáo dục. Đến nay, tầm quan trọng của nó đã được thừa nhận rộng rãi ở Việt Nam nhưng những bước tiến trong thực tế vẫn còn rất chậm, một phần do khung pháp lý chưa hoàn thiện và một phần do các trường chưa sẵn sàng thực thi.
Sinh viên đóng học phí tại Trường ĐH Công nghiệp TP HCM. Ảnh: Tấn Thạnh/Người Lao Động.
Bước tiến trong năm 2015: Tự chủ tài chính
Năm 2015, có 2 diễn biến chính sách quan trọng: Chính phủ phê duyệt đề án 12 trường công tự chủ tài chính và chủ trương cổ phần hóa trường công.
Thực ra, quyết định mở rộng số trường công tự chủ tài chính này đã nằm trong một lộ trình bắt đầu từ năm 2006 qua Nghị định 43/NĐ-CP với 6 trường ĐH thí điểm tự cân đối thu chi để bảo đảm toàn bộ kinh phí thường xuyên. Điểm tiến bộ so với trước là nay không chỉ tự chủ về việc chi như thế nào mà còn tự chủ cả mức thu. Nói nôm na là để cho các trường công vận hành trong cơ chế thị trường, cho phép thu học phí cao và đưa ra chất lượng dịch vụ tương xứng. Nói cách khác là đa dạng hóa nguồn cung để tăng thêm cơ hội lựa chọn cho người học.
Vẫn biết là điều này sẽ làm hẹp lại cánh cửa cho người nghèo nhưng một chủ trương tốt cần bao hàm được nhiều yếu tố bổ sung cho nhau: cần có những chính sách hỗ trợ bao gồm học bổng và tín dụng cho người nghèo; nếu chỉ dựa vào mức thu nhập của người nghèo để định ra mức học phí thì chúng ta không bao giờ có dịch vụ đào tạo ĐH có chất lượng.
Chủ trương này không hẳn là đã được hoan nghênh hoàn toàn cả từ phía các trường lẫn người dân. Nhiều năm thụ hưởng bao cấp về giáo dục, nhiều người chưa sẵn sàng chấp nhận quan niệm xem giáo dục ĐH là một dịch vụ và khi nhà nước không còn khả năng bao cấp, giá rẻ không thể đi kèm chất lượng tốt. Các trường cũng ít nhiều e ngại khi bị cắt bầu sữa ngân sách bởi lo thu không đủ bù chi, nhất là các trường kỹ thuật vốn phải đầu tư nhiều trang thiết bị.
Nhà nước sẽ có được sự đồng thuận và ủng hộ lớn hơn của công chúng nếu nhấn mạnh đầy đủ đến trách nhiệm giải trình của các trường, vốn là một công cụ hữu hiệu để cân bằng với quyền tự chủ và giúp các trường phát triển lành mạnh.
Hơn nữa, rất cần nhấn mạnh rằng chuyển các trường công sang tự chủ tài chính không có nghĩa là nhà nước trút bỏ trách nhiệm đối với giáo dục ĐH mà là đòi hỏi các trường phải thích ứng với đòi hỏi của thị trường lao động, cải thiện hoạt động nhằm vào hiệu quả; còn nhà nước thì tập trung vào những lĩnh vực và chức năng mà thị trường không thể đáp ứng.
Một chính sách khác là cổ phần hóa trường công, tức biến trường công thành trường tư, đang gây ra nhiều e ngại. Bởi lẽ, điều đó sẽ được coi như đẩy nhà trường vào khu vực thị trường bằng cách thương mại hóa triệt để - một giải pháp biến tài sản công thành của tư rất xa lạ với thực tiễn quản trị hệ thống ở các nước.
Tự chủ tuyển sinh: Còn nhiều trắc trở
Năm 2015, tuyển sinh được thực hiện theo cách chưa từng có tiền lệ trước đây: kết hợp 2 kỳ thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh ĐH thành một; thi trước chọn trường sau; thí sinh được chọn nhiều tổ hợp điểm khác nhau và xét tuyển công khai từ trên xuống.
Tuy nhiên, đã xảy ra nhiều trục trặc trong quá trình thực hiện, gây bức xúc cho thí sinh và cả xã hội cũng như tốn nhiều giấy mực, thời gian để bàn luận. Trước khi bình luận về những điều này, có lẽ cũng nên nhắc lại rằng Bộ GD&ĐT đã cho phép các trường tự tổ chức tuyển sinh riêng. Thực tế, đã có hàng trăm trường chủ động lập đề án, thực hiện tuyển sinh riêng theo cách của mình. Trong đó, có những nơi nghiên cứu rất cẩn thận và tổ chức một cách bài bản, hiện đại như ĐHQG Hà Nội. Các trường phải chịu cảnh nộp - rút náo loạn là những trường tham gia xét tuyển chung theo sự điều phối của Bộ GD-ĐT mà trực tiếp là Cục Khảo thí.
Mặc dù những hạn chế trong khâu tổ chức, đặc biệt về mặt kỹ thuật và quy trình thực hiện của Bộ GD&ĐT, có vai trò quan trọng gây ra những bất cập không đáng có nhưng chúng ta vẫn cần nhìn nhận rằng bước tiến lớn trong tự chủ tuyển sinh là việc bộ chấp nhận cho các trường được phép có phương án riêng, tức là chấp nhận một mức độ tự chủ rất đáng kể so với trước đây. Bởi lẽ, đi cùng với nó là sự đa dạng trong phương thức tuyển sinh.
Lãnh đạo nhiều trường nói rằng nếu được phép lựa chọn, họ sẽ sử dụng kết quả kỳ thi năng lực của ĐHQG Hà Nội để xét tuyển vào trường mình. Điều này củng cố ý tưởng tách riêng 2 việc thi và tuyển, như một số chuyên gia đã đề cập từ lâu. Tách thi và tuyển là cách làm phổ biến ở nhiều nước vì bảo đảm phẩm chất kỹ thuật của việc đánh giá năng lực, quyền tự chủ của từng trường trong xây dựng chính sách, chiến lược và tiêu chuẩn, quy trình lựa chọn sinh viên.
Hiện nay, Việt Nam chưa thực sự đi theo hướng này, ngoài những trường có đề án tuyển sinh riêng, những trường tham gia xét tuyển chung chỉ dựa vào hầu như một nhân tố là điểm thi. Trong khi đó, điểm thi chỉ nói lên một phần năng lực người học, chưa kể là thi chung như năm nay thì có nhiều yếu tố làm cho điểm thi có khả năng không chính xác.
Tự chủ về nhân sự: Gây tranh cãi
Câu chuyện tự công nhận tiêu chuẩn giáo sư của Trường ĐH Tôn Đức Thắng đã đặt ra một vấn đề quan trọng hơn: Chính sách bổ nhiệm và sử dụng giảng viên, nói rộng hơn là chính sách dùng người. Mặc dù gây nhiều tranh cãi nhưng tác động của nó là đưa ra công luận tầm quan trọng của việc trao quyền cho các trường công nhận những thành tích học thuật của giới hàn lâm nhằm khích lệ và sử dụng họ tốt hơn.
Kết cục của câu chuyện ồn ào này là Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam chấp thuận đề nghị của Hội đồng Chức danh Giáo sư nhà nước xem xét lại thủ tục, tiêu chuẩn, quy trình công nhận và bổ nhiệm giáo sư, nhằm thay đổi những bất hợp lý hiện thời.
Mặc dù chúng ta chưa biết chính sách mới về việc này sẽ ra sao nhưng có thể hy vọng nó thể hiện được xu thế quốc tế, là chuyển dịch trọng tâm về phía các trường. Hiện nay, hiệu trưởng các trường công cũng như tư đều do nhà nước bổ nhiệm.
Chúng ta có thể hy vọng trong tương lai, quy trình lựa chọn lãnh đạo các trường cũng sẽ là câu chuyện của từng trường. Điều này đang được thấy rõ ở các trường công tự chủ tài chính. Do phải đương đầu với cạnh tranh của kinh tế thị trường, các trường công tự chủ tài chính đang có xu hướng tìm người lãnh đạo thực sự có năng lực chứ không chỉ là những người có gia thế hay quan hệ tốt.
Có thể nói, trong lĩnh vực tự chủ, Việt Nam đang tiến những bước rõ rệt và đáng khích lệ. Có lẽ điều cần nhấn mạnh là nhà nước cần chú trọng hơn đến những thiết chế bảo đảm trách nhiệm giải trình của các trường nhằm xây dựng vị trí quân bình của nhà trường và bảo vệ lợi ích của xã hội.
Chưa nắm được cơ hội tự chủ về học thuật
Tháng 4/2015, Bộ GD&ĐT ban hành Thông tư 07 quy định về chuẩn đầu ra các bậc học từ cử nhân đến tiến sĩ và quy trình xây dựng, thẩm định chương trình đào tạo; đồng thời công bố dự thảo về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chương trình đào tạo vào tháng 11/2015.
Những văn bản chính sách này đã thiết lập một hành lang pháp lý cần thiết để các trường có cơ sở thực thi quyền tự chủ của mình trong việc xây dựng chương trình và quyết định nội dung giảng dạy. Bộ chỉ hướng dẫn quy trình và khung khổ chung cho từng trình độ nhưng không can thiệp vào việc xác định chuẩn đầu ra của từng ngành, từng trường. Lạ lùng thay, một số trường lại cho rằng xây dựng chuẩn đầu ra cho từng ngành, từng trình độ là việc của Bộ GD-ĐT và mong bộ sẽ làm thay việc ấy cho mình!
Có thể thấy đang có một không gian mở ra cho các trường để làm được nhiều việc có ý nghĩa đổi mới nhưng dường như nhiều trường vẫn chưa nắm lấy được những cơ hội ấy
Theo Phạm Thị Ly/Người Lao Động
Đại học làm gì trước áp lực quốc tế hóa? Để có những trường đại học đạt chất lượng quốc tế, không thể duy trì cách tổ chức quản lý nhà trường như cách đây vài thập kỷ, vì bối cảnh giờ đây đã hoàn toàn khác. Hội thảo Đổi mới Quản lý giáo dục đại học (ĐH) do Khoa Quốc tế ĐH Quốc gia Hà Nội tổ chức mới đây thu hút...