Yếu tố quan trọng quy hoạch mạng lưới giáo dục đại học
Tự chủ đại học, phân tầng, xếp hạng giáo dục đại học (GDĐH) là xu thế tất yếu. GDĐH Việt Nam cũng đang thay đổi theo yêu cầu của xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá.
ảnh minh họa
Việc tự chủ, phân tầng cho các trường ĐH đóng vai trò hết sức quan trọng. Góp phần xác định rõ mục tiêu, định hướng phát triển của các trường trong chiến lược đổi mới GDĐH. Tăng cường tự chủ đại học
PGS.TS Trần Văn Tớp – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội cho rằng, xu hướng các trường đại học có quyền tự chủ và có năng lực quản trị càng ngày càng trở nên cấp thiết. Chúng ta đang từng bước thực hiện tự chủ đại học theo Nghị quyết 77 của Chính phủ và sắp tới là Nghị định về tự chủ đại học. Trong đó từng bước xây dựng hệ thống quản trị đại học.
Đối với trường đại học công lập, để Hội đồng trường thành cơ quan quyền lực cần quy định quyền, vai trò và trách nhiệm của Hội đồng trường.
Theo PGS.TS Trần Văn Tớp, để tăng quyền lực và trách nhiệm của Hội đồng trường, ngoài chức năng, nhiệm vụ như quy định trong Luật, còn tăng thẩm quyền quyết định, trong đó có bầu Hiệu trưởng và Ban giám hiệu, trình cấp có thẩm quyền phê chuẩn. Phương án Hội đồng trường tổ chức quy trình bầu Hiệu trưởng, trình cơ quan quản lý có thẩm quyền công nhận là hợp lý. Tuy nhiên, cần xác định rõ cơ quan có thẩm quyền cụ thể là gì, vì hiện tại Bộ, ngành, địa phương là cơ quan chủ quản.
Chuẩn hóa và hội nhập quốc tế là giải pháp quan trọng nhằm bảo đảm chất lượng và hiệu quả đào tạo, từng bước tiếp cận các chuẩn mực khu vực, quốc tế thông qua công tác kiểm định chất lượng giáo dục cần xây dựng và áp dụng các chuẩn mực có tính hội nhập quốc tế đối với cơ sở giáo dục đại học nói chung cũng như đối với quy trình đào tạo, cơ sở vật chất kỹ thuật, đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý GS Đào Trọng Thi
GS Đào Trọng Thi (nguyên Chủ nhiệm UBVHGD TNTNNĐ của Quốc hội) cho rằng, để tăng quyền tự chủ cho cơ sở GDĐH thì cần hoàn thiện hành lang pháp lý và cơ sở giáo dục phải có năng lực thực hiện quyền tự chủ trong từng lĩnh vực. Phạm vi tự chủ không chỉ giới hạn trong hoạt động học thuật (đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế) mà còn bao gồm cả hoạt động tổ chức, cán bộ và tài chính, tài sản. Cụ thể, điều kiện quan trọng nhất để thực hiện quyền tự chủ học thuật là các cơ sở GDĐH phải được kiểm định chất lượng; với quyền tự chủ tài chính là năng lực quản lý và tự đảm bảo kinh phí chi thường xuyên; với quyền tự chủ về tổ chức – bộ máy là năng lực về quản lý và phát triển đội ngũ.
Video đang HOT
Theo GS Đào Trọng Thi, đi đôi với quyền tự chủ, cơ sở GDĐH có trách nhiệm giải trình với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, xã hội và các bên liên quan về việc thực hiện trách nhiệm và cam kết của mình, công khai minh bạch các thông tin và kết quả hoạt động theo quy định. Tăng cường tự chủ đại học là một giải pháp quan trọng nhằm tạo động lực cho sự phát triển GDĐH.
Xu thế tất yếu nâng tầm chất lượng
Theo GS Đào Trọng Thi, việc phân tầng là yếu tố rất quan trọng đối với quy hoạch mạng lưới các cơ sở GDĐH. Theo ông, “đối với cơ sở GDĐH công lập sau khi Hội đồng trường quyết nghị vẫn cần trình cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt”.
Việc xếp hạng quy định trong Luật hiện hành được hiểu theo nghĩa phân hạng cơ sở GDĐH theo tinh thần phân loại xếp hạng các đơn vị sự nghiệp công lập của Chính phủ. Việc phân hạng các cơ sở GDĐH cần cho công tác quản lý Nhà nước và nên được quy định trong Luật GDĐH.
Còn việc xếp hạng trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung lại được hiểu theo nghĩa xếp thứ hạng các cơ sở GDĐH. Việc này cũng rất cần, thường do các tổ chức độc lập thực hiện và không nhất thiết phải quy định trong Luật.
TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến, nguyên Trợ lý Bộ trưởng Bộ GD&ĐT cho rằng: “Việc giao quyền tự chủ cho các cơ sở GDĐH tự quyết định sứ mạng, mục tiêu phát triển theo định hướng nghiên cứu hoặc định hướng thực hành mà không có sự phân tầng trước theo quy định của Nhà nước sẽ có nguy cơ dẫn tới hỗn loạn bởi theo tổng kết thực tiễn thì các trường đều có xu hướng leo thang sứ mệnh. Theo tôi việc phân tầng phải do Chính phủ thực hiện trong đó xác định một số đại học định hướng nghiên cứu được Nhà nước đầu tư để làm đầu đàn dẫn dắt hệ thống GDĐH. Từng cơ sở GD sẽ xác định sứ mệnh của mình trong phạm vi đã được phân tầng”.
PGS.TS Trần Văn Tớp – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội cho rằng, ở Việt Nam, chỉ từ chỗ trường đại học nào cũng được xưng danh là “university” giống nhau nên thực hiện việc triển khai phân tầng rất khó khăn.
Về phân tầng nên thay bằng phân loại (classification) thì hợp lý hơn, mặc dù về bản chất là xếp các cơ sở giáo dục đại học theo các tầng. Mục tiêu của việc phân loại là nhằm định hướng và giao nhiệm vụ của Nhà nước cho 1 cơ sở giáo dục đại học, kể cả về mặt đầu tư.
Tuy nhiên, quy định phân loại các cơ sở đào tạo đại học nên theo các tiêu chuẩn phù hợp với thông lệ quốc tế: Tiêu chuẩn xếp hạng cơ bản cho các đại học (university) và các trường đại học (college).
Mặc dù đây là công việc còn mới mẻ, nhưng với việc định hướng phân tầng có ý nghĩa to lớn của một công việc mang tính chiến lược, và như một luồng gió mới vừa có ý nghĩa quan trọng nhằm xác định rõ mục tiêu, định hướng phát triển của các trường, vừa tạo ra cơ sở cho việc giao quyền tự chủ cho các trường ĐH giúp các trường nắm được quyền tự chủ của mình để đem lại hiệu quả kinh tế cho cả Nhà nước lẫn người học, tạo thuận lợi giúp học sinh lựa chọn đúng trường, đúng ngành nghề học.
Theo Giaoducthoidai.vn
Đề án đào tạo 23.000 tiến sĩ, kết quả thấp thảm hại
Nhiều chỉ tiêu đạt dưới 10%, số lượng nghiên cứu sinh (NCS) hoàn thành khoá học, bảo vệ đúng thời hạn đạt tỉ lệ rất thấp... phần nào nói lên những thất bại trong thực hiện "Đề án đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ (TS) các trường ĐH, CĐ giai đoạn 2006-2020" (gọi tắt là Đề án 911).
ảnh minh họa
Đề án 911 theo Quyết định 911/QĐ-TTg ngày 17.6.2010 của Thủ tướng Chính phủ có tổng kinh phí 14.000 tỉ đồng với mục tiêu đào tạo 23.000 TS.
Riêng giai đoạn 2012-2016, chỉ tiêu đào tạo là 12.800 NCS nhưng tính đến hết năm 2016, tổng số NCS trúng tuyển thực nhập học là 4.024 NCS, đạt 31,4% so với chỉ tiêu của giai đoạn và bằng 17,5% của đề án.
Trong đó, 787 NCS tốt nghiệp và được cấp bằng đạt 6% chỉ tiêu tính đến năm 2016 và bằng 3,5% cả đề án.
Về đào tạo tiến sĩ trong nước, tổng số NCS trúng tuyển đến hết năm 2016 là 2.062 đạt 36% chỉ tiêu đến năm 2016 và bằng 20,6% của đề án. Như vậy, với mục tiêu của đề án là từ năm 2010-2016 đào tạo từ 1.000 - 1.200 NCS/năm với tổng số 5.700 NCS trong nước là không đạt.
Đó là chưa kể, số NCS trúng tuyển không dự học, bỏ học không theo học hoặc chuyển sang nghiên cứu theo hình thức đại trà từ năm 2012 - 2016 là 143 NCS chiếm 6,9% số NCS trúng tuyển.
Số NCS kết thúc thời gian nghiên cứu là 703. Trong đó, 222 NCS hoàn thành khóa học bảo vệ thành công cấp bằng đạt 32% số NCS hết thời gian nghiên cứu; bao gồm tốt nghiệp đúng thời hạn là 165 NCS, chậm 1 năm là 46 NCS, chậm 2 năm 8 NCS. Số NCS hết thời hạn nghiên cứu nhưng chưa tốt nghiệp là 501 NCS.
Như vậy, số NCS hoàn thành khóa học bảo vệ cấp bằng đúng kỳ hạn tỷ lệ thấp là 23% (165/703); số NCS đã hết thời hạn nghiên cứu nhưng chưa bảo vệ đề án hoặc bảo vệ thành công cấp bằng chậm chiếm tỷ lệ tương đối cao là 77% (638/703).
Về đào tạo ngoài nước, tính đến hết năm 2016 chỉ tiêu là 5.800 NCS, kết quả thực hiện đạt tỉ lệ rất thấp. Cụ thể, trong số 2.926 NCS trúng tuyển, chỉ có 1.981 người đi học đạt 67%.
Điều đáng nói, số tuyển sinh đào tạo ở nước ngoài nêu trên không phải hoàn toàn do Đề án 911 thực hiện, mà có 655 người thuộc danh sách do Đề án 356 chuyển sang. Vì vậy, kết quả thực chất chỉ có 1.306 NCS, bằng 23% chỉ tiêu năm 2016 và bằng 13% tổng chỉ tiêu 10.000 NCS của đề án.
Số NCS đào tạo ở nước ngoài bỏ học là 45 người. Số NCS hoàn thành khoá học về nước 549 NCS đạt 75% số NCS hết thời hạn nghiên cứu. Số NCS đã hết thời gian nghiên cứu nhưng chưa bảo vệ đề án hoặc bảo vệ đề án chậm 1 đến 2 năm chiếm tỷ lệ tương đối cao 45% (355/735NCS).
Về đào tạo TS theo hình thức phối hợp, liên kết đào tạo giữa các trường trong nước và ngoài nước, chỉ có 1 NCS đang học tập tại Pháp. Như vậy, tỉ lệ chỉ đạt 1/1300 NCS theo giai đoạn và 1/3.000 NCS theo cả đề án.
Theo Laodong.vn
Đánh giá giảng viên qua trình độ tiếng Anh Viên chức của trường ĐH cũng phải tham dự bài kiểm tra để đánh giá chuẩn trình độ tiếng Anh phục vụ công việc. Cán bộ Trường ĐH Kinh tế TP.HCM trong buổi tập huấn tuyển sinh Sáng 3.1, Trường ĐH Kinh tế TP.HCM tổ chức kiểm tra trình độ tiếng Anh với các viên chức đang làm việc tại trường gồm giảng...