Yếu tố nào giúp Trung Quốc tự tin ‘vượt mặt’ Mỹ tại Đông Nam Á?
Chiến lược ‘ngoại giao vaccine Covid-19′ đang được Trung Quốc vận dụng khéo léo tại khu vực Đông Nam Á.
Trung Quốc đang có lợi thế hơn Mỹ tại Đông Nam Á với chiến lược ‘ngoại giao vaccine Covid-19′. (Nguồn: Financial Times)
Trung Quốc “ghi điểm”
Trong một nỗ lực mới nhất nhằm thu hút sự ủng hộ của khu vực để chống lại Trung Quốc, Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo vừa có chuyến công du tới các quốc gia Đông Nam Á chủ chốt trước thềm cuộc bầu cử tổng thống Mỹ.
Tuy nhiên, các nỗ lực của người đứng đầu ngành ngoại giao Mỹ hầu như đã thất bại tại Indonesia, quốc gia vốn có ác cảm với các liên minh chiến lược và vẫn duy trì chính sách trước đây với Trung Quốc, trong đó có cả vấn đề vaccine phòng bệnh Covid-19.
Trong khi Mỹ tìm cách xây dựng một liên minh chống Trung Quốc tại Biển Đông, Bắc Kinh đang tận dụng lợi thế người đi đầu trong cuộc khủng hoảng y tế này bằng chiến dịch “ngoại giao vaccine”. Nỗ lực y tế của Bắc Kinh dường như đang nhận được sự hưởng ứng tại các quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong khu vực.
Trong tháng 10/2020, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã có chuyến công du khu vực với các điểm dừng chân tại Thái Lan và Malaysia nhằm quảng cáo độ tin cậy của vaccine Trung Quốc.
Ba công ty Trung Quốc đã cam kết cung cấp 250 triệu liều vaccine cho Indonesia, quốc gia lớn nhất Đông Nam Á và có lẽ cũng bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi đại dịch.
Ngược lại, ông Pompeo “tay không” đến Jakarta và cũng “tay trắng” trở về.
Theo truyền thông, các quan chức Mỹ đã không thể thuyết phục được Indonesia cấp phép hạ cánh và tiếp nhiên liệu cho các đơn vị do thám hoạt động của Trung Quốc tại các vùng biển lân cận bằng máy bay P-8 Poseidon.
Ông Dino Patti Djalal, nhà ngoại giao kỳ cựu, từng là Đại sứ Indonesia tại Washington, nói: “Trung Quốc đang tận dụng cuộc khủng hoảng Covid-19 một cách thông minh và có chiến lược nhằm thúc đẩy các mối quan hệ trong khu vực”.
Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ David Stillwell mới đây thông báo rằng Washington đã tặng 1.000 máy thở trong gói viện trợ trị giá 12,5 triệu USD giúp Indonesia ứng phó với dịch Covid-19.
Video đang HOT
Tuy nhiên, các nỗ lực của Mỹ dường như chỉ là “muối bỏ bể” đối với một quốc gia đã ghi nhận hơn 400.000 ca lây nhiễm và đang phải vật lộn với cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất kể từ những năm 1990.
Trong khi đó, các công ty Trung Quốc do nhà nước hậu thuẫn đã bắt đầu thử nghiệm vaccine giai đoạn 3 trong quý II và III, trong đó có các cuộc thử nghiệm trên các quan chức và binh sĩ. Hiện họ đang cùng phát triển vaccine với các nước láng giềng, trong đó có Indonesia, một trung tâm tiềm năng để sản xuất và phân phối vaccine trong khu vực.
Mỹ đang lép vế?
Mặt khác, Mỹ có vẻ như là một đối tác y tế cộng đồng kém tin cậy hơn. Mỹ đang phải đối mặt với làn sóng lây nhiễm thứ hai với số ca nhiễm mới trong ngày đạt kỷ lục 88.521 ca hôm 29/10. Cuộc chiến kiên cường chống Covid-19 của Mỹ với việc áp đặt các lệnh phong tỏa hiệu quả và tuân thủ các biện pháp giãn cách xã hội cơ bản đã gây nhiều thiệt hại cho danh tiếng của nước này.
Các nhà lãnh đạo nổi bật nhất Đông Nam Á, trong đó có Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte và Tổng thống Indonesia Joko Widodo, đều đang mong chờ sự xuất hiện sớm của các loại vaccine từ Trung Quốc nhằm giảm thiểu tác động của cuộc khủng hoảng kép về kinh tế và y tế.
Tổng thống Philippines đã nhiều lần coi Trung Quốc (cùng với Nga) là nguồn cung cấp vaccine chính, trong đó các lô hàng vaccine dự kiến sẽ được bàn giao trước cuối năm nay. Đồng thời, ông Duterte cũng lên tiếng chỉ trích các quốc gia phương Tây là thiếu hành động và thiếu độ tin cậy.
Trong thông điệp quốc gia mới đây, Tổng thống Duterte khẳng định: “Chúng tôi sẽ ưu tiên Nga và Trung Quốc với điều kiện là vaccine của họ tốt như bất kỳ loại vaccine nào khác trên thị trường”, đồng thời nhấn mạnh cam kết mua vaccine càng sớm càng tốt.
Tương tự, Tổng thống Indonesia Widodo cũng “đặt cược” vào vaccine Trung Quốc và thúc đẩy việc đặt mua vaccine nhanh bằng cách ban hành Quy định Tổng thống số 99/2020. Hiện Bộ Nghiên cứu và Công nghệ Indonesia đang giám sát nỗ lực chung của các cơ quan nghiên cứu hàng đầu trong nước nhằm phát triển loại vaccine Covid-19 nội địa mang tên “Merah Putih”.Ông ca ngợi Trung Quốc về các điều khoản hào phóng, trong đó có việc không đòi thanh toán trước và “tiền cọc” như các quốc gia khác. Phàn nàn về các nhà sản xuất vaccine phương Tây, nhà lãnh đạo Philippines nói: “Họ muốn bạn tài trợ cho nghiên cứu của họ và hoàn thiện vaccine… Họ muốn ứng tiền mặt trước khi giao vaccine. Nếu đúng như vậy, tất cả chúng ta sẽ chết”.
Các doanh nghiệp nhà nước như Bio Farma và Kimia Farma được cho là có thể sản xuất tới 123 triệu liều trong tổng số 352 triệu liều cần thiết để tiêm chủng cho toàn bộ người dân của quốc gia đông dân thứ 4 thế giới này, trong đó Bio Farma đang hợp tác phát triển một loại vaccine ngừa Covid-19 với Sinovac Biotech của Trung Quốc.
Các cuộc thử nghiệm trên người cũng đang được tiến hành tại huyện Bandung của tỉnh Tây Java trong khuôn khổ kế hoạch thăm dò hợp tác khác giữa chính phủ Indonesia với hai nhà sản xuất vaccine Sinopharm và CanSino Biologics của Trung Quốc.
Ngay từ cuối tháng 6/2020, công ty dược phẩm CanSino Biologics có trụ sở tại Thiên Tân đã phối hợp cùng Học viện Khoa học Quân y của Trung Quốc để bắt đầu tiến hành các thử nghiệm trên người. Trong khi đó, SinoPharm đã ký thỏa thuận cung cấp 300 triệu liều vaccine cho Indonesia trước cuối năm 2021.
Vấn đề nhận thức có ý nghĩa quan trọng trong cuộc chạy đua vaccine toàn cầu. Tại Vũ Hán, tâm chấn ban đầu của đại dịch, các sự kiện quy mô lớn trong đó có buổi hòa nhạc được phát rộng rãi trên mạng internet đã dẫn đến đồn đoán về thành công của cuộc thử nghiệm vaccine hàng loạt tại thành phố này của Trung Quốc.
Dù vậy, Mỹ cũng đang tiến hành thử nghiệm và chịu sự giám sát chặt chẽ của pháp luật để phát triển ít nhất 3 loại vaccine ngừa Covid-19 trong những tháng tới. Không giống như Trung Quốc, các công ty dược phẩm của Mỹ được tín nhiệm và tin tưởng trên toàn thế giới, kể cả tại Đông Nam Á, nơi họ đã có hàng chục năm kinh nghiệm.
300 năm người Thái ấp ủ tham vọng 'kênh đào Panama châu Á'
Cứ vài năm, ý tưởng đào con kênh qua Eo đất Kra để mở tuyến hàng hải nối biển Andaman với Vịnh Thái Lan lại được người Thái đưa ra rồi gạt đi.
Ý tưởng "Kênh đào Kra", thường được gọi là tham vọng "kênh đào Panama châu Á", đã xuất hiện từ hơn 300 năm trước, nhằm tận dụng lợi thế vị trí trung tâm của Thái Lan ở Đông Nam Á bằng cách tạo tuyến hàng hải cắt qua phần hẹp nhất của Bán đảo Mã Lai để tăng tốc vận chuyển thương mại.
Những người ủng hộ dự án cho biết nó sẽ giúp tàu chở hàng rút ngắn hai ngày so với hành trình đi qua eo biển Malacca, một trong những tuyến đường vận chuyển nhộn nhịp nhất thế giới và hiện là tuyến đường biển ngắn nhất nối Ấn Độ và Trung Đông với châu Á - Thái Bình Dương.
So sánh tuyến đường qua Eo biển Malacca với ý tưởng về Kênh đào Kra. Đồ họa: Ifeng.
Năm 2004, một ủy ban Thượng viện Thái Lan đã gạt ý tưởng xây kênh đào. Gần đây, kế hoạch biến Thái Lan trở thành tiền đồn hậu cần quốc tế quan trọng lại được nêu ra, nhưng không phải là tham vọng "kênh đào Panama châu Á".
Nội các Thái Lan thông qua nghiên cứu tính khả thi trị giá 68 triệu baht (2,2 triệu USD) để xem xét một tuyến đường sắt và đường cao tốc có khả năng kết nối hai cảng nước sâu sẽ được xây dựng ở hai bên của Eo đất Kra.
Bộ trưởng Giao thông Vận tải Saksiam Chidchob nói hồi tháng trước rằng tuyến cầu lục địa 100 km dành riêng cho vận chuyển container này sẽ thay thế dự án kênh đào, vốn được dự đoán là sẽ gây ra nhiều tác động tới môi trường.
Khi Thái Lan đang chật vật phục hồi sau tác động kinh tế của Covid-19, Thủ tướng Prayuth Chan-ocha cho biết các cảng và cầu lục địa sẽ đảm bảo sự ổn định kinh tế của Thái Lan trong thời gian dài, và dần chuyển nền kinh tế từ phụ thuộc vào du lịch và xuất khẩu sang định hướng công nghệ hơn.
Ý tưởng xây kênh đào là một đại kế hoạch, nhưng lịch sử các dự án tương tự không thành hiện thực đã khiến các nhà phân tích và doanh nghiệp e dè. Các nhà quan sát cho rằng việc xây kênh đào hay cầu lục địa đều gặp những chướng ngại về tài chính, quản lý, các vấn đề an ninh và ngoại giao, cũng như sự không chắc chắn về tương lai địa chính trị của Thái Lan khi cạnh tranh ảnh hưởng của Mỹ - Trung ở khu vực ngày càng sâu sắc.
Sumeth Suwanphrom, thành viên của nhóm vận động dân sự Hiệp hội Nghiên cứu và Phát triển Kênh đào Thái Lan, cho biết một nghiên cứu của quốc hội hồi đầu năm ước tính chi phí đào kênh và xây dựng cảng ở hai bên eo đất là hai nghìn tỷ baht (64 tỷ USD). Với khoản đầu tư quy mô như vậy, ông hy vọng nhiều quốc gia sẽ hợp tác giúp Thái Lan quản lý dự án.
Sumeth cho biết ý tưởng kênh đào đã được một tướng về hưu "hồi sinh" vì ông đánh giá nó sẽ tạo ra việc làm và mang lại sự phát triển rất cần thiết cho nền kinh tế phụ thuộc vào đánh bắt hải sản và du lịch của các tỉnh miền nam Thái Lan, đồng thời cũng giúp dập tắt phong trào ly khai vốn là vấn đề nhức nhối nhiều năm qua ở khu vực này.
Trong khi đó, các nhà phê bình chỉ ra rằng con kênh sẽ ngăn cách các tỉnh miền nam Thái Lan với phần còn lại của đất nước, có khả năng "đổ thêm dầu" vào lửa xung đột.
Một yếu tố khác là mối quan tâm của Trung Quốc và khả năng họ tham gia xây dựng kênh đào Kra, vốn là chủ đề được đồn đoán trong nhiều năm. Hiệp hội Kênh đào Thái Lan từ lâu đã nói rằng Trung Quốc sẽ hỗ trợ dự án đào kênh, nhưng nhiều người, trong đó có phó giáo sư kinh tế Aksornsri Phanishsarn từ Đại học Thammasat, cho rằng Bắc Kinh không cần phải tìm đến một con kênh để kết nối hàng hải trong khu vực.
"Trung Quốc có các dự án hậu cần khác để kết nối với Ấn Độ Dương, như cảng nước sâu Kyaukpyu ở bang Rakhine tại tây Myanmar", bà nói, đồng thời cho biết thêm rằng một cây cầu lục địa sẽ là phương thức vận tải hiệu quả hơn kênh đào và nó sẽ là xương sống hậu cần cho hai đặc khu kinh tế của Thái Lan, Hành lang kinh tế phía Nam và phía Đông.
Ian Storey, chuyên gia tại Viện ISEAS-Yusof Ishak, cho rằng Trung Quốc không thể hiện rõ ràng họ có tham gia vào dự án kênh đào của Thái Lan hay không.
"Vào giữa những năm 2000, các nhà phân tích chiến lược Trung Quốc cho rằng con kênh sẽ tăng cường an ninh năng lượng của đất nước bằng cách giảm số tàu chở dầu mang cờ Trung Quốc cần phải quá cảnh qua eo biển Malacca, nơi họ coi là nằm trong tầm 'kiểm soát' của Mỹ'", ông viết trong một báo cáo năm 2019.
Năm 2013, Chủ tịch Trung Quốc lúc bấy giờ là Hồ Cẩm Đào đã gọi sự phụ thuộc nhiều của Trung Quốc vào eo biển Malacca và nguy cơ tàu chở hàng cho Trung Quốc bị chặn đường ở khu vực này trong tình huống xung đột là "Thế tiến thoái lưỡng nan Malacca". "Mặc dù Thế tiến thoái lưỡng nan Malacca luôn bị phóng đại, các nhà phân tích chiến lược ở Trung Quốc vẫn xem kênh đào Kra là một cách hữu ích để phân tán rủi ro", Storey viết. "Bắc Kinh chưa bao giờ chính thức quảng bá con kênh như một dự án thuộc Sáng kiến Vành đai và Con đường. Tuy nhiên, theo quan điểm của nhiều nhà phân tích Thái Lan, Bắc Kinh đang âm thầm thúc đẩy các công ty Trung Quốc hỗ trợ xây dựng kênh đào".
Tàu chở hàng đi qua eo biển Malacca. Ảnh: SCMP.
Nhưng đối với nhiều người Thái Lan, trong bối cảnh đại dịch, việc Trung Quốc có tham gia hay không không đáng quan tâm bằng vấn đề kinh tế trong nước. Ghanyapad Tantipipatpong, chủ tịch Hội đồng Công ty Chuyển hàng ở Thái Lan, cho biết các lập luận về cả cầu lục địa lẫn kênh đào đều có thiếu sót.
"Trọng tâm là giảm thời gian di chuyển cho tàu hàng, nhưng sẽ mất bao lâu để hàng hóa đi qua? Các cơ sở và hạ tầng khác thì sao?", bà nói. "Việc xây dựng cảng ở hai đầu của con kênh sẽ làm phá hoại các rạn san hô ở cả hai bên, môi trường và du lịch sẽ bị ảnh hưởng".
Ghanyapad nói rằng với tình hình suy thoái thương mại toàn cầu do Covid-19 và căng thẳng thương mại Mỹ - Trung, nhiều người trong lĩnh vực xuất khẩu của Thái Lan không chắc liệu dự án có thể thu hồi vốn được hay không.
"Thời gian xử lý khi tàu đi qua cảng Busan hoặc cảng Singapore là 24 giờ, trong khi cảng Laem Chabang tại đông Thái Lan mất nhiều thời gian hơn, vì vậy kênh đào Thái Lan chưa chắc có thể rút ngắn thời gian nếu quản lý cảng thiếu hiệu quả".
Theo Sumeth, ý tưởng cầu lục địa còn không mang tính thực tiễn bằng kênh đào, vì container phải được dỡ xuống ở một đầu cầu và bốc lên tàu khác ở đầu kia. "Kênh đào sẽ giúp tiết kiệm khoảng thời gian đó", ông nói.
Storey nói rằng trong khi một tuyến đường dành riêng cho xe container trên đất liền rẻ hơn đáng kể so với một con kênh, "sự thật mà nói, cả hai đều không khả thi về mặt kinh tế".
"Vào thời điểm nhu cầu hàng hóa toàn cầu sụt giảm và giá dầu giảm kịch sàn, các công ty vận tải biển không cần phải giảm thời gian di chuyển đi hai ngày - lợi ích mà cả cầu đường bộ và kênh đào được cho là sẽ mang đến. Các công ty vận tải container kiếm tiền nhờ khả năng đúng hẹn chứ không phải thời gian đi nhanh hơn", ông nói.
"Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu do Covid-19, rất ít nhà đầu tư sẵn sàng bỏ tiền vào các dự án chỉ tạo ra lợi nhuận ít ỏi. Hơn nữa, chính phủ của Thủ tướng Prayuth đang bận đối phó với những yêu cầu hiến pháp dân chủ hơn và cải cách chế độ quân chủ từ người biểu tình. Họ không có nguồn lực chính trị để xem xét các sáng kiến như thế này", Storey nói thêm.
Người Thái nơm nớp vì lễ hội đèn trời Lễ hội đèn trời nổi tiếng Thái Lan ngày càng tăng quy mô, dẫn tới lo ngại về thiệt hại tài sản và khiến nhiều chuyến bay bị hủy. Lễ hội thả đèn trời Yee Peng là một sự kiện thường niên nổi tiếng ở Thái Lan, thường được tổ chức vào ngày trăng tròn của tháng 10 hoặc tháng 11. Lễ hội...