Xưởng chế tạo công cụ 1,2 triệu năm t.uổi
Trong 1,2 triệu năm, một xưởng cổ xưa, nơi chế tạo ra những công cụ làm thay đổi lịch sử loài người đã ẩn mình rất kỹ.
Nhưng gần đây, các nhà khảo cổ học đã có thể làm sáng tỏ bí mật này, mở ra một chương mới trong nghiên cứu về quá khứ loài người.
Những gì các nhà khảo cổ học đã tìm thấy dọc sông Awash?
Trong vòng 30 năm qua, các nhà khoa học tiến hành nghiên cứu, khai quật đã phát hiện ra một xưởng chế tạo công cụ cổ xưa dọc theo thung lũng phía trên sông Awash, một con sông lớn không chảy ra biển, mà nằm hoàn toàn trong lãnh thổ Ethiopia và đổ vào một chuỗi các hồ nối liền nhau ở nước này. Ngoài những viên cuội được đẽo thành dụng cụ cắt gọt của người nguyên thủy, xương động vật bị ghè vỡ cách nay chừng 2,5-2,6 triệu năm, các chuyên gia thuộc Đại học Nam Connecticut còn phát hiện nhà bếp cổ nhất thế giới tại Gona trong thung lũng.
Đặc biệt, ngày 24/11/1974, hai nhà khảo cổ Donald Johanson và Tom Gray đã tìm thấy những mẩu hóa thạch đầu tiên của tổ tiên loài người được gọi là Lucy ở vùng lõm Danakil, bắt đầu là một xương cẳng tay phải, rồi đến x.ương s.ọ, xương đùi, xương sườn, xương chậu và xương hàm dưới. Hai tuần sau, bằng những kỹ thuật tìm kiếm công phu, họ đã tìm thấy nhiều mẩu xương hóa thạch có thể tái tạo 40% bộ xương của họ hàng loài người. Hóa thạch thuộc về chi vượn người phương nam, dạng vượn người đầu tiên, sinh sống ở khu vực này hơn 3 triệu năm trước.
Nhiều hóa thạch khác của tổ tiên loài người được phát hiện ở đây khiến một số nhà cổ sinh vật học nghĩ rằng khu vực này là nơi loài người tiến hóa lần đầu tiên. Kết quả là, vùng lõm Danakil được gọi là “cái nôi của nhân loại”. Đây là khám phá độc đáo, có tầm quan trọng rất lớn, vì nó cho phép chúng ta xem xét lại những ý tưởng về người nguyên thủy và sự phát triển công nghệ của họ, có thể có tác động đáng kể đến sự hiểu biết về lịch sử loài người.
Khai quật ở thung lũng phía trên sông Awash, Ethiopia.
UNESCO đã đ.ánh giá: “Vùng thung lũng Awash bao gồm những nhóm di chỉ cổ sinh vật thuộc loại quan trọng nhất của lục địa châu Phi. Những di vật cổ nhất tìm được có niên đại cách đây ít nhất 4 triệu năm đã cung cấp các bằng chứng về sự tiến hóa của con người và làm thay đổi quan niệm về lịch sử nhân loại”.
Con người đã sống trong thung lũng Awash gần như từ khi bắt đầu loài. Phần trung Awash là địa điểm khảo cổ đã phát hiện ra nhiều hóa thạch h.ài c.ốt Vượn nhân hình Hominid. Phần hạ lưu của thung lũng Awash là ngôi nhà truyền thống của người Afar – tộc người du mục, sống trong lều gỗ có thể di chuyển, chăm sóc đàn gia súc nhỏ gồm dê, lừa và lạc đà, dân số hiện có khoảng 3 triệu người. Thung lũng Awash đã được đưa vào như một phần lãnh thổ thuộc các tỉnh hoặc vương quốc lịch sử Dawaro, Fatagar, Ifat và Shewa.
Xưởng được các nhà khảo cổ học phát hiện nằm ở thung lũng phía trên của sông Awash. Đây là một nơi xa xôi và khó tiếp cận trên trái đất, nơi môi trường tự nhiên hầu như không bị ảnh hưởng bởi hoạt động của con người trong nhiều thiên niên kỷ. Việc phát hiện ra xưởng là kết quả của quá trình nghiên cứu lâu dài và khai quật có hệ thống. Các nhà khảo cổ đã sử dụng nhiều phương pháp và công nghệ khác nhau để khám phá cấu trúc cổ xưa này.
Khi bắt đầu nghiên cứu, các nhà khảo cổ đã tiến hành phân tích sâu rộng các dữ liệu địa chất và địa vật lý để xác định vị trí tiềm năng của các cổ vật. Sau đó, họ sử dụng các công nghệ hàng không vũ trụ như hình ảnh vệ tinh và quét laser để thu được hình ảnh chi tiết về khu vực và xác định các địa điểm khảo cổ tiềm năng. Sau đó, các nhà khảo cổ tiếp tục thu thập dữ liệu về địa điểm, tiến hành khai quật có hệ thống và nghiên cứu các lớp đất. Họ đã sử dụng máy dò kim loại và các dụng cụ chuyên dụng khác để phát hiện các đồ tạo tác bằng kim loại như đầu mũi tên. Ngoài ra, họ cũng tiến hành khảo sát bề mặt để tìm thấy nhiều công cụ bằng đá khác nhau có thể nằm rải rác xung quanh xưởng. Kết quả của quá trình nghiên cứu các nhà khảo cổ học đã tích lũy đủ bằng chứng để xác nhận sự hiện diện của một xưởng cổ xưa. Đây là một thành tựu khoa học quan trọng vì nó cung cấp thông tin giá trị về sự phát triển công nghệ và cuộc sống hàng ngày của người cổ đại.
Những công cụ cổ xưa.
Video đang HOT
Làm thế nào mà các nhà khảo cổ học chứng minh t.uổi của xưởng?
Kết quả của các cuộc khai quật, các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra một số lượng lớn các hiện vật liên quan đến việc sản xuất các công cụ. Trong số đó có các công cụ bằng đá, mũi giáo, rìu và các vật dụng khác là một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của người cổ đại. Tuy nhiên, điều ngạc nhiên hơn cả là những cổ vật này có niên đại khoảng 1,2 triệu năm trước. Các nhà khảo cổ học đã sử dụng một số phương pháp để chứng minh t.uổi của xưởng và có được thông tin chi tiết về nó.
Xác định niên đại bằng phương pháp carbon phóng xạ. Phương pháp này cho phép bạn xác định t.uổi của các vật liệu hữu cơ như gỗ, xương hoặc than. Các nhà khảo cổ đã sử dụng các mẫu vật liệu hữu cơ được tìm thấy trong xưởng và gửi chúng để xác định niên đại bằng carbon phóng xạ. Kết quả phân tích này có thể xác nhận t.uổi của mẫu vật.
Địa tầng là phương pháp dựa trên cơ sở nghiên cứu các lớp đất. Các nhà khảo cổ đã nghiên cứu các lớp đất trên dưới nơi xưởng được phát hiện và so sánh chúng với các phát hiện khảo cổ khác. Điều này cho phép xác định t.uổi tương đối của xưởng và mối quan hệ của nó với các đồ tạo tác khác.
Các nhà khảo cổ đã nghiên cứu các hiện vật được tìm thấy trong xưởng, chẳng hạn như dao đá, giáo mác và các công cụ khác. Họ đã sử dụng các phương pháp so sánh để xác định phong cách, kỹ thuật làm ra chúng và so sánh chúng với các đồ tạo tác khác đã được xác định t.uổi. Điều này cho phép các nhà khảo cổ liên kết những hiện vật này với một thời điểm cụ thể trong lịch sử loài người.
Sự kết hợp của tất cả các phương pháp này cho phép các nhà khảo cổ có được thông tin toàn diện về xưởng và t.uổi của nó. Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và hạn chế riêng nên việc kết hợp chúng sẽ cho kết quả chính xác và đáng tin cậy hơn.
Người cổ đại đã có thể tạo ra những chiếc rìu sắc bén từ hơn 1,2 triệu năm trước.
Những đồ tạo tác đã được phát hiện và cách sử dụng chúng trong thời cổ đại
Nhiều công cụ khác nhau đã được tìm thấy trong xưởng, cung cấp thông tin có giá trị về cách chúng được sử dụng trong thời cổ đại.
Dao đá là một trong những công cụ chính được tìm thấy trong xưởng. Chúng có thể được sử dụng để mổ thịt và chế biến động vật, để nấu ăn, để may mặc và thực hiện các công việc hàng ngày khác. Đó là một công cụ rất hữu ích trong việc cho phép người cổ đại thích nghi với môi trường của họ.
Giáo cũng được tìm thấy trong xưởng, được sử dụng để săn b.ắn và phòng thủ. Chúng được làm bằng đá và được trang bị các đầu nhọn bằng đá.
Rìu là một loại công cụ đặc biệt mà người cổ đại sử dụng để chặt cây, cạo vỏ cây, xẻ thịt và đào đất. Trong số các đồ tạo tác được tìm thấy có hơn 30 chiếc rìu, đây là một trong những phát hiện ấn tượng nhất. Những chiếc rìu được làm bằng đá và có chất lượng tay nghề rất cao. Một trong những đặc tính tuyệt vời của những chiếc rìu được tìm thấy là hình dạng đều đặn và độ sắc nét của chúng. Chúng đã được chế tạo cẩn thận, độ sắc bén của rìu cho thấy người cổ đại có những kỹ năng và công nghệ cần thiết để tạo ra những công cụ sắc bén và hiệu quả. Những chiếc rìu này là bằng chứng về sự phát triển kỹ thuật và văn hóa của người cổ đại, những người có đủ kiến thức và kỹ năng để tạo ra những công cụ phức tạp và tinh xảo. Cách sản xuất của họ yêu cầu phải xử lý cẩn thận và kỹ năng làm việc với đá – điều này chỉ ra rằng người cổ đại đã phát triển các kỹ năng thủ công mỹ nghệ và là những nhà công nghệ có năng lực vào thời của họ.
Sự kiện khám phá ra xưởng chế tạo công cụ cổ xưa ở Ethiopia có tầm quan trọng to lớn đối với sự hiểu biết về sự phát triển của văn hóa loài người và sự phát triển công nghệ. Trước đây người ta tin rằng việc sử dụng phức tạp các công cụ chỉ là đặc trưng của các thời kỳ sau, khi các loài người phát triển hơn. Tuy nhiên, việc phát hiện ra xưởng cổ xưa này chỉ ra rằng tổ tiên của chúng ta, ngay cả ở giai đoạn đầu của quá trình tiến hóa của loài người, đã có những kỹ năng và khả năng kỹ thuật đáng kinh ngạc.
Phát hiện cơ chế hô hấp kỳ lạ của loài khủng long: Thở thông qua xương
Vì phổi thường không tồn tại qua quá trình hóa thạch, người ta có thể thắc mắc làm thế nào các nhà khoa học có thể xác định chắc chắn bất cứ điều gì về khả năng hô hấp của các loài đã tuyệt chủng.
Và câu trả lời nằm trong xương của của chúng.
Ở đâu đó trong quá khứ của Trái Đất, một số nhánh trên cây sự sống đã áp dụng một phương pháp đặc biệt giúp cho việc thở và hạ nhiệt hiệu quả hơn đáng kể so với cách cơ thể của động vật có vú như của chúng ta thực hiện.
Bề ngoài, sự phát triển này có vẻ không nhiều cho đến khi các nhà khoa học khám phá ra rằng nó có thể đã tồn tại ở một số loài khủng long lớn nhất mà hành tinh của chúng ta từng biết đến. Nó thành công đến mức được duy trì bởi 3 nhóm loài đã tuyệt chủng khác nhau và tiếp tục tồn tại cho đến ngày nay ở hậu duệ còn sống của loài khủng long.
Trong một bộ bài báo được xuất bản vào cuối năm 2022 và đầu năm 2023, các nhà cổ sinh vật học đã kiểm tra vi cấu trúc hóa thạch bên trong một số loài khủng long được biết đến sớm nhất để xác định xem các bộ phận ban đầu của hệ thống này đã phát triển như thế nào.
Nhiều xương được kiểm tra trong quá trình nghiên cứu nằm gần phổi
Ở các loài như chim, hệ thống đó chứa các khoang, còn được gọi là "túi khí", nằm trong xương khắp toàn bộ cơ thể. Không giống như quá trình thở của động vật có vú, nơi hít vào và thở ra là 2 quá trình riêng biệt, những xương này giúp cho phép thở một chiều: hít vào và thở ra cùng một lúc. Được gọi là khí nén của xương sau sọ, nó là một phần của một hệ thống cực kỳ hiệu quả giúp nhanh chóng đưa oxy vào m.áu và lấy nhiệt ra khỏi cơ thể.
Ngày nay, hệ thống túi khí đó chỉ được biết đến ở loài chim. Chim và cá sấu đều là những loài có nguồn gốc ban đầu từ thằn lằn, họ hàng còn sống của khủng long và thằn lằn bay không phải chim. Mặc dù cá sấu ngày nay có cơ chế thở một chiều qua phổi, nhưng khả năng xử lý không khí của chúng không kéo dài đến xương, bởi chúng không có bất kỳ khoang túi khí nào. Một bài báo được đăng tải trên PLOS One năm 2012 đã kiểm tra các hệ thống túi khí của các loài khủng long trong kỷ Trias và các tác giả đã xác định rằng "không có loài thằn lằn nào thuộc dòng cá sấu thể hiện bằng chứng rõ ràng về tính khí nén của bộ xương sau sọ".
Tito Aureliano, người không tham gia nghiên cứu nói trên, giải thích về kết luận của các tác giả: "Không có dấu hiệu giải phẫu nào của bất kỳ đặc điểm khí nén thực sự nào có liên quan đến túi khí trước sự tiến hóa của thằn lằn bay và khủng long saurischian".
Ông giải thích rằng, là động vật có vú, chúng ta có thể trở nên khó thở hoặc quá nóng do hoạt động thể chất cường độ cao hoặc nhiệt độ cao. Tuy nhiên, nếu có một hệ thống túi khí xâm lấn, chúng ta sẽ không gặp phải tình trạng đó.
Vậy những túi khí này phát triển từ khi nào? Chúng đã có mặt từ khoảng 145 đến 66 triệu năm trước trong các loài theropod kỷ Phấn trắng (khủng long hai chân là loài ăn thịt hoặc ăn cỏ), thằn lằn bay và sauropod (khủng long cổ dài khổng lồ).
Không phải tất cả động vật đều sử dụng kỹ thuật và cơ quan giống nhau để thở. Trong khi con người co giãn phổi để hô hấp, chim có các túi khí bên ngoài phổi để bơm oxy vào nên phổi của chúng không thực sự chuyển động. Trong một thời gian dài, các nhà cổ sinh vật học tin rằng tất cả các loài khủng long đều thở như chim, vì chúng có cấu tạo giải phẫu hô hấp giống nhau
Do đó, để tìm ra nguồn gốc của chúng, Aureliano, một nhà cổ sinh vật học tại Đại học Liên bang Brazil do Rio Grande do Norte, là tác giả chính của 3 bài báo gần đây đã tìm kiếm xa hơn về kỷ Trias (khoảng 252 đến 201 triệu năm trước).
Nhóm nghiên cứu đã tìm kiếm câu trả lời dựa trên hai loại sauropodomorphs (sauropoda sơ khai trước khi chúng tiến hóa thành cổ dài và kích thước khổng lồ) có tên là Buriolestes và Pampadromaeus, và một loại khủng long ăn thịt có tên là Gnathovorax.
Dấu vết trên mô xương hóa thạch khớp với dấu vết được tìm thấy ở các loài chim còn sống ngày nay cho thấy sự hiện diện của sự thích nghi hô hấp này. Tuy nhiên không loài khủng long nào trong số những loài ban đầu có những dấu vết này, cho thấy rằng khí nén của bộ xương sau sọ vẫn chưa tiến hóa ở thời điểm đó. Điều này có nghĩa là nó không thể có mặt trong tổ tiên chung của khủng long.
Đồng tác giả Aline Ghilardi, một nhà cổ sinh vật học và trợ lý giáo sư có nhiệm kỳ, cũng tại Đại học Liên bang Brazil do Rio Grande do Norte, cho biết: "Vì những con khủng long đầu tiên không có cấu trúc khí nén xâm lấn, nên túi khí chắc chắn đã phải tiến hóa sau đó. Và nếu nó tiến hóa sau đó, thì về mặt logic, loài thằn lằn bay phải tiến hóa nó theo một cách song song".
Khủng long và họ hàng gần của chúng dường như đã tiến hóa xương với các khoang khí ít nhất 3 lần
Nói cách khác, những kết quả này cho thấy 3 dòng loài đã tuyệt chủng đã tiến hóa cùng một hệ thống hô hấp một cách độc lập. Hiện tượng này được gọi là tiến hóa hội tụ.
Nhưng các hóa thạch cũng gợi ý rằng sự phát triển của các túi khí đã bắt đầu vào thời điểm này. Aureliano giải thích rằng 2 con sauropodomorph và 1 con herrerasaurid mà họ nghiên cứu sống cách đây khoảng 233 triệu năm có sự xuất hiện của túi khí, nhưng loài khủng long pampadromaeus "được thu thập trong một nền đá cao hơn một chút" cũng xuất hiện những dấu vết này. Khoảng cách về thời gian này mặc dù tương đối nhỏ về mặt địa chất, nhưng đã tạo ra "một sự thay đổi lớn" trong bộ xương sauropodomorph. Pampadromaeus có một loại mô mới mà nhóm nghi ngờ có thể là một bước tiến tới sự tiến hóa của túi khí.
"Toàn bộ hệ thống mạch m.áu ở pampadromaeus đều khác", Aureliano nói. "Nó ít đậm đặc hơn và có các fractal bên trong - những khoang rất nhỏ để nhận m.áu và các mô mỡ". Ông nói thêm, điều này sẽ giúp "trong tương lai các túi khí xâm lấn sẽ được hình thành".
Ali Nabavizadeh là nhà cổ sinh vật học và trợ lý giáo sư lâm sàng về giải phẫu học tại Trường Thú y thuộc Đại học Pennsylvania, người không tham gia vào nghiên cứu này. Ông ủng hộ các kết luận được tìm thấy trong các bài báo này, bao gồm ý tưởng rằng hệ thống đã phát triển 3 lần riêng biệt. Tiến hóa hội tụ là "phổ biến ở các loài động vật có xương sống", Nabavizadeh nói
Cả Aureliano và Ghilardi đều chỉ ra rằng khí hậu nóng trong kỷ Tam Điệp là một lý do tiềm ẩn khiến sự thích ứng này phát triển. Ghilardi đề xuất: "Có lẽ nếu sinh lý học của bạn cung cấp một cơ thể đối phó với nhiệt hiệu quả, thì bạn sẽ có lợi thế hơn các đối thủ của mình. Có lẽ đây là chìa khóa để thành công của loài khủng long trong thời đại đó".
Nhóm sau đó đã chuyển sang một loại sauropodomorph khác từ Brazil được gọi là Macrocollum itaquii. Aureliano nói: Macrocollum xuất hiện trên hành tinh "8 triệu năm sau Buriolestes, và loài vật này lớn gấp 3 lần".
Nhóm nghiên cứu đã so sánh các thành phần xương khác nhau của những con khủng long sơ khai với những người khổng lồ cổ dài sau này. Họ ghi nhận sự vắng mặt của hệ thống túi khí ở những loài khủng long đầu tiên, chẳng hạn như Gnathovorax đã nói ở trên. Nhưng vào cuối kỷ Jura (khoảng 154 triệu năm trước), loài khủng long sauropoda khổng lồ đã có hệ thống túi khí khắp cơ thể, khiến m.áu chúng ít đậm đặc hơn và phân phối oxy và nhiệt hiệu quả hơn.
'Báu vật' trong căn cứ Mỹ tiết lộ điều g.ây s.ốc 400.000 năm trước Trong một căn cứ mật của Mỹ, các nhà khoa học đã tìm thấy trong tủ đông một báu vật bị bỏ quên từ những năm 1960, có thể tiết lộ những bí mật cổ xưa của hành tinh. Theo Sience, nhóm nghiên cứu Mỹ - Bỉ - Đan Mạch dẫn đầu bởi TS Andrew J.Christ từ Đại học Vermont (Mỹ) đã xem...