Xung đột Nga – Ukraine đã tác động và làm bộc lộ những vấn đề gì ở châu Á trong năm 2022
Ukraine có thể cách xa châu Á nửa vòng Trái đất, nhưng cuộc xung đột ở đây đã tác động mạnh đến khu vực này theo rất nhiều cách, đồng thời làm lộ rõ sự phụ thuộc và tính dễ bị tổn thương của một số quốc gia châu Á.
Tác động tới quan hệ với Nga
Theo tờ Nikkei Asia, sau khi Nga bị phương Tây trừng phạt vì chiến dịch quân sự đặc biệt tại Ukraine, quan hệ giữa Nga và một số quốc gia châu Á đã thay đổi. Trong khi Nga rời xa các nước áp đặt trừng phạt mình như Nhật Bản, Singapore thì nước này đã thắt chặt quan hệ hơn với một số quốc gia châu Á.
Trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Myanmar là thành viên duy nhất công khai bày tỏ ủng hộ chiến dịch quân sự đặc biệt của Nga. Một doanh nhân Myanmar nói với tờ Nikkei Asia tại một diễn đàn ở Naypyitaw: Ngày càng có nhiều người Nga quan tâm đến giao dịch với Myanmar, trong đó có cả các doanh nghiệp nhỏ, đặc biệt kể từ khi các biện pháp trừng phạt của phương Tây đã làm tăng chi phí thương mại quốc tế.
Diễn đàn nói trên ở Myanmar trùng hợp với chuyến thăm của ông Maxim Reshetnikov, Bộ trưởng Phát triển Kinh tế Nga. 100 công ty Nga và 200 công ty Myanmar đã tham gia diễn đàn và thảo luận về hợp tác trong các lĩnh vực gồm sản xuất, năng lượng, du lịch và tài chính.
Với Thái Lan, quốc gia này không tham gia trừng phạt Nga, kêu gọi hòa bình, đồng thời cố gắng khôi phục các liên kết kinh tế.
Trước COVID-19, Nga là nguồn khách du lịch lớn thứ tư của Thái Lan, khi đón tới 1,48 triệu du khách Nga vào năm 2019 nhờ thị thực 30 ngày miễn phí. Vào tháng 10, hãng hàng không Nga Aeroflot đã nối lại các dịch vụ đến đảo Phuket ở miền Nam Thái Lan. Trên 44.000 người Nga đã vào Thái Lan trong tháng đó, nhiều hơn cả khách từ Australia hoặc Nhật Bản.
Về phần mình, Ấn Độ đã tránh lên án Nga một cách rõ ràng. Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đã trực tiếp nói với Tổng thống Nga Vladimir Putin rằng đây không phải là thời đại của chiến tranh và đã nhiều lần kêu gọi đối thoại. Tuy nhiên, Ấn Độ cũng đã được hưởng lợi khi có thể mua dầu thô giảm giá của Nga.
Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi (trái) và Tổng thống Nga Vladimir Putin. Ảnh: TASS
Lượng nhập khẩu dầu từ Nga vào Ấn Độ đã tăng vọt sau xung đột ở Ukraine, bất chấp chỉ trích của các nước châu Âu.
Theo sau Ấn Độ, gần đây có thông tin cho rằng quốc gia đang gặp khó khăn về tài chính là Pakistan sẽ mua tới 4,3 triệu tấn dầu giảm giá của Nga bắt đầu từ năm tới. Dù không có đường ống nhưng giá chiết khấu sẽ giúp bù đắp đáng kể chi phí vận chuyển dầu từ Nga sang Pakistan. Sri Lanka cũng đang đi theo con đường tương tự.
Trung Quốc cũng đã mua khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) của Nga ở mức kỷ lục vào tháng 11, trong khi lượng nhập khẩu dầu và than cũng tăng mạnh.
Mặc dù tổng lượng nhập khẩu LNG của Trung Quốc giảm 5,4%, nhưng lượng mua mặt hàng năng lượng này từ Nga trong tháng 11 đã tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 852.000 tấn với giá trị 815,6 triệu USD.
Nga đã trở thành nhà cung cấp khí đốt tự nhiên lớn thứ hai của Trung Quốc, sau Turkmenistan, với lượng giao hàng tăng 177%, đạt 3,5 tỷ USD trong 11 tháng đầu năm.
Video đang HOT
Nga đã tăng cường xuất khẩu dầu cho Trung Quốc, tăng 17% trong tháng 11 so với năm trước lên 7,81 triệu tấn, lượng cao nhất kể từ tháng 8, vượt qua Saudi Arabia trở thành nhà cung cấp dầu hàng đầu của nước này. Theo báo cáo, xuất khẩu dầu thô của Nga sang Trung Quốc trong 11 tháng đầu năm tăng 10,2%, đạt 79,78 triệu tấn. Về giá trị, nguồn cung dầu của Nga cho Trung Quốc trong giai đoạn trên đạt 54,49 tỷ USD – tăng 50% so với năm ngoái.
Bên cạnh đó, lượng than nhập khẩu từ Nga, gồm cả than nâu, tăng 41% lên 7,2 triệu tấn. Nguồn cung than luyện cốc cho ngành thép cũng tăng gấp đôi so với năm ngoái, lên tới 2,1 triệu tấn, nhưng thấp hơn mức kỷ lục hồi tháng 9.
Gây lạm phát, mất an ninh lương thực
Xung đột ở Ukraine đã gây ra lạm phát và mất an ninh lương thực ở toàn thế giới, trong đó có châu Á. Các quốc gia Nam Á kể trên là một số quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất.
Người dân mua hàng hóa ở Ấn Độ. Ảnh: AFP/TTXVN
Trước cuộc xung đột, Nga là nước xuất khẩu phân bón lớn nhất thế giới, trong khi Ukraine là một hành lang xuất khẩu quan trọng. Vì xung đột, Chỉ số Giá Phân bón của Ngân hàng Thế giới đã tăng vọt lên mức kỷ lục 254,96 trong tháng 4 so với 196,44 trong tháng 2. Kể từ đó, chỉ số này đã giảm xuống còn khoảng 200, nhưng xu hướng chung là không giúp ích nhiều cho các quốc gia đang gặp khó khăn như Sri Lanka.
Giá phân bón đã tăng cao hơn kể từ tháng 9/2019, khi chỉ số này chỉ ở mức 77,84. Trung Quốc hạn chế xuất khẩu phân bón vào năm 2021 để bảo vệ an ninh lương thực.
Giá lúa mì toàn cầu cũng tăng do phản ứng với cuộc xung đột vì Ukraine và Nga cùng nhau chiếm khoảng 30% lượng xuất khẩu lúa mì.
Ấn Độ, nhà sản xuất lớn thứ hai thế giới sau Trung Quốc, đã đột ngột cấm xuất khẩu ngũ cốc vào tháng 5 để kiểm soát giá cả tăng vọt và củng cố nguồn cung trong nước. Hồi tháng 9, là nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, Ấn Độ cũng hạn chế xuất khẩu một số loại gạo, dù đang điều chỉnh chính sách.
Lạm phát đã ở mức kỷ lục trên toàn cầu trong cả năm 2022 và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự đoán lạm phát sẽ đạt 8,8% hàng năm trong tháng này. Trong 10 tháng liên tiếp trong năm nay, lạm phát bán lẻ của Ấn Độ vẫn duy trì ở trên mức cho phép là 2-6% của ngân hàng trung ương. Vào tháng 11, lạm phát ở Ấn Độ cuối cùng đã giảm xuống còn 5,88%, chủ yếu là do giá lương thực cuối cùng đã giảm xuống.
Xung đột làm lộ rõ sự phụ thuộc và tính dễ bị tổn thương ở châu Á
Cuộc xung đột đã làm lộ rõ sự phụ thuộc và tính dễ bị tổn thương của một số quốc gia châu Á.
Lệnh cấm tạm thời của Indonesia vào đầu năm nay đối với xuất khẩu dầu cọ đã khiến Ấn Độ lo ngại vì nước này mua một nửa dầu cọ Indonesia để đáp ứng nhu cầu. Động thái của Indonesia diễn ra vào thời điểm dầu hướng dương – mặt hàng mà Ấn Độ và nhiều nước chủ yếu nhập khẩu từ Ukraine – đang chịu áp lực.
Công nhân thu hoạch dầu cọ tại Pelalawan, tỉnh Riau, Indonesia. Ảnh: AFP/TTXVN
Trong khi đó, Indonesia là nhà nhập khẩu lúa mì lớn thứ hai thế giới của Ukraine và đã phải tìm kiếm các sản phẩm thay thế đắt tiền hơn để sản xuất mì, bánh mì và bột mì.
Nhật Bản là nước nghèo tài nguyên, phụ thuộc vào nhiên liệu nhập khẩu để đáp ứng gần 90% nhu cầu và xung đột ở Ukraine đã làm tăng rủi ro năng lượng, đồng thời khiến nước này phải ra một số quyết định khó khăn.
Một quyết định liên quan đến Sakhalin-2, một dự án dầu khí ở Viễn Đông của Nga. Trong khi nhiều công ty quốc tế đã ngừng kinh doanh ở Nga, gồm đối tác Shell của Sakhalin-2, thì các công ty thương mại Nhật Bản Mitsui và Mitsubishi vào tháng 8 đã báo hiệu rằng họ có ý định tiếp tục tham gia dự án dưới sự điều hành của một công ty mới, Sakhalin Energy. Cổ phần của họ đã được Nga chấp thuận vào ngày 31/8.
Bộ trưởng Kinh tế Nhật Bản Yasutoshi Nishimura cho biết thỏa thuận này có ý nghĩa to lớn đối với an ninh năng lượng quốc gia. Nhật Bản nhận được khoảng 60% sản lượng của Sakhalin-2, chiếm khoảng 10% tổng lượng khí tự nhiên hóa lỏng nhập khẩu của nước này.
Vào tháng 11, Nhật Bản cũng đã chọn giữ lại cổ phần của mình trong Sakhalin-1, một dự án dầu mỏ trong khu vực mà ExxonMobil đã rút khỏi.
Mặc dù vậy, những lo ngại về tính ổn định của nguồn cung, chi phí nhập khẩu cao và các ưu tiên khử cacbon đã khiến Nhật Bản có rất ít lựa chọn và quay lại với năng lượng hạt nhân.
Hơn 1/4 sản lượng điện của Nhật Bản là điện hạt nhân vào năm 2010, nhưng tỷ lệ này đã giảm xuống còn 13,4% vào năm 2020 sau thảm họa hạt nhân Fukushima. Vào ngày 3/10, Thủ tướng Fumio Kishida nói với quốc hội rằng để đảm bảo nguồn cung cấp năng lượng ổn định, Nhật Bản sẽ giải quyết vấn đề năng lượng hạt nhân trong bối cảnh khủng hoảng năng lượng.
Tuần trước, Nhật Bản đã đề ra chính sách năng lượng mới trong đó điện hạt nhân đóng vai trò lâu dài. Tuy nhiên, trong số 33 lò phản ứng hiện có, chỉ có 10 lò được phép hoạt động.
Nhìn lại cuộc khủng hoảng năng lượng toàn cầu năm 2022
Đối với ngành năng lượng, năm 2022 sẽ được ghi nhớ là năm mà xung đột ở Ukraine đã tạo ra cuộc khủng hoảng năng lượng toàn cầu chưa từng có.
Công trình xây dựng trạm tiếp nhận khí tự nhiên hoá lỏng (LNG) nổi của Đức tại cảng Wilhelmshaven, miền Tây Bắc nước này ngày 29/9. Ảnh: AFP/TTXVN
Theo hãng tin Reutes, sự kiện Nga đưa quân vào Ukraine và các biện pháp trừng phạt sau đó của phương Tây đã tạo ra áp lực mới đối với nguồn cung dầu, trong bối cảnh nguồn cung hạn hẹp và không đủ để đáp ứng nhu cầu cho nền kinh tế đang phục hồi nhanh chóng sau đại dịch COVId-19.
Các công ty năng lượng hàng đầu thế giới đã nhanh chóng rút khỏi Nga. Các quốc gia châu Âu vội vã tìm mọi cách để đảm bảo nguồn năng lượng cho mùa đông.
Giá khí đốt tự nhiên đạt mức cao nhất trong nhiều năm và giá dầu lên gần 140 USD/thùng, gần mức kỷ lục mọi thời đại, gây ra vòng xoáy lạm phát hậu đại dịch, tạo ra cuộc khủng hoảng chi phí sinh hoạt ở nhiều quốc gia.
Cuộc xung đột ở Ukraine và các biện pháp trừng phạt Nga sau đó của phương Tây đã làm đổ vỡ các mối quan hệ trong chuỗi cung ứng vốn đã tồn tại trong nhiều thập kỷ.
Các nền kinh tế lớn trên thế giới làm mọi cách để tìm nguồn năng lượng thay thế cho nguồn cung từ Nga. Các chính phủ đẩy nhanh triển khai năng lượng mặt trời và gió, nhưng cũng đẩy mạnh mua than, khiến các mục tiêu về biến đổi khí hậu đã bị trì hoãn.
Các chính phủ đã chi hàng tỷ USD để hỗ trợ các tập đoàn điện lớn như Uniper của Đức. Nam Phi trải qua đợt cắt điện tồi tệ nhất trong lịch sử. Sri Lanka cạn kiệt nhiên liệu.
Cuộc xung đột ở Ukraine khiến các nước châu Âu phải đánh giá lại mối quan hệ với Nga - quốc gia từ lâu đã là nhà cung cấp khí đốt tự nhiên chính của lục địa này.
Kể từ đó, các quốc gia đã thảo luận và bắt đầu áp dụng biện pháp áp trần giá dầu mỏ Nga từ ngày 5/12, trong khi châu Âu đang thảo luận về trần giá khí đốt và đầu tư nhiều hơn vào khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) để đáp ứng nhu cầu năng lượng.
Ông Michael Stoppard, cố vấn đặc biệt và nhà phân tích khí đốt toàn cầu tại công ty S&P Global Commodity Insights, cho biết: "Chúng ta đang chứng kiến mối quan hệ đối tác thành công suốt 50 năm về khí đốt giữa Nga và châu Âu chấm dứt. Điều đó dẫn đến điều chỉnh lại cung và cầu và sẽ mất thời gian. Chúng ta sẽ phải gánh chịu hậu quả cho đến năm 2023 và lâu hơn nữa".
Tình trạng lộn xộn vẫn chưa kết thúc. Các nền công nghiệp lớn cũng đang chuẩn bị đối phó với những hạn chế về nguồn cung vào năm 2023, nếu không muốn nói là trong nhiều năm sau đó.
Các chính phủ ở Mỹ và châu Âu đều chuyển sang hỗ trợ nguồn cung chiến lược cho các đồng minh cho dù chi phí có thể cao hơn, đồng thời tăng cường sử dụng các gói viện trợ và thuế trong nước để phát triển các nguồn năng lượng hạt nhân, năng lượng mặt trời, gió, hydro.
Một trạm trung chuyển khí đốt lớn nhất châu Âu ở Werne, Đức. Ảnh: AFP/TTXVN
Kể từ ngày 9/8, Liên minh châu Âu (EU) bắt đầu thực hiện mục tiêu giảm 15% lượng khí đốt sử dụng trong khoảng thời gian từ tháng 8/2022 đến tháng 3/2023. Mặc dù là tự nguyện, song kế hoạch tiết kiệm khí đốt cho một mùa Đông an toàn vẫn đưa ra đề xuất về một luật mới, cho phép EU có quyền buộc các quốc gia thành viên phải đáp ứng các mục tiêu cắt giảm trong trường hợp đặc biệt tùy thuộc vào mức tiêu thụ và dự trữ của mỗi nước.
Trong cuộc họp báo chung mới đây, Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) và Ủy ban châu ÂU (EC) cho rằng dù châu Âu có đủ năng lượng năm nay, năm sau lại là câu chuyện khác. IEA dự báo EU có thể phải đối mặt với khả năng thiếu khí đốt lên tới 30 tỷ m3 vào năm 2023, bởi nguồn cung từ đường dẫn khí đốt của Nga đã dừng lại và thị trường LNG vận chuyển bằng đường tàu sẽ bị giảm đi khi nhu cầu của Trung Quốc hồi phục trở lại. Thêm vào đó, không ai có thể đảm bảo rằng nhiệt độ năm tới sẽ ôn hòa như năm nay.
Đánh giá của IEA đặt giả thiết các đường ống khí đốt mà Nga đang cấp cho EU sẽ dừng hoàn toàn đầu năm 2023, nhập khẩu LNG của Trung Quốc quay về mức năm 2021 và các cơ sở lưu trữ khí đốt của châu Âu chỉ còn 30% cuối mùa đông này. Dù vậy, IEA cho rằng phần thiếu hụt vẫn có thể giảm bớt nếu châu Âu tích cực áp dụng nhiều biện pháp.
Khi năm 2022 sắp kết thúc, chi phí cho khí đốt tự nhiên và nhiên liệu sưởi ấm đã giảm khi hoạt động kinh tế suy giảm. Nhưng mọi người vẫn đang gặp khó khăn và có thể tiếp tục gặp khó như vậy trong một thời gian vì nguồn cung khan hiếm gây ra nhiều cú sốc giá hơn.
Ông Francesco Starace, Giám đốc điều hành Enel của Italy, một trong những công ty năng lượng lớn nhất thế giới, cho biết: "Đây sẽ được coi là một năm có ảnh hưởng mạnh mẽ, thực sự là khởi đầu của một hệ thống hoàn toàn mới. Năm 2022 và một phần của năm 2023 là khi tất cả những điều quan trọng này xảy ra. Đó là một năm phá bỏ thói quen và thay đổi rất rõ ràng".
Tổng thống Hàn Quốc kêu gọi các nước G20 chấm dứt 'chủ nghĩa bảo hộ quá mức' Ngày 15/11, Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk-yeol kêu gọi các nước thành viên Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) chấm dứt "chủ nghĩa bảo hộ quá mức", nhấn mạnh tình đoàn kết và hợp tác là mấu chốt để đối phó với cuộc khủng hoảng lương thực và năng lượng toàn cầu. Tổng...