Vũ Kiệt và bài văn đỗ trạng kiệt xuất trong lịch sử
Với trí tuệ uyên bác, Vũ Kiệt trở thành trạng nguyên nổi danh trong lịch sử. Bài văn đỗ trạng của ông là kiệt tác nói về sách lược trị nước, an dân, đặc biệt là giáo dục đào tạo.
Theo sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Vũ Kiệt sinh năm 1452, chưa rõ năm mất, người xã Yên Việt, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).
Nổi tiếng thông minh từ nhỏ, năm 20 tuổi, ông đỗ trạng nguyên khoa thi năm Nhâm Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ ba, đời vua Lê Thánh Tông (năm 1472). Đây chính là thời kỳ giáo dục thi cử phong kiến đang trong giai đoạn phát triển cực thịnh.
Theo chế định thi cử xưa, người muốn đỗ trạng nguyên phải thi đỗ 3 kỳ thi Hương, thi Hội và thi Đình. Trong đó, thi Đình cao nhất, được tổ chức ngay trong sân điện nhà vua.
Khác với những kỳ thi trước đó, thi Đình chỉ thi một bài văn sách nên gọi là Đình đối văn sách, do nhà vua trực tiếp ra đề và trực tiếp phê duyệt, xếp hạng.
Để là trạng nguyên, sĩ tử ngoài những kiến thức chung phải hiểu biết sâu về tình hình đất nước, vận dụng tri thức của mình để lý giải, đề ra kế sách giải quyết những vấn đề thực tiễn.
Ngôi trường mang tên trạng nguyên Vũ Kiệt ở Bắc Ninh. Ảnh: Báo Bắc Ninh.
Theo sách Văn hiến Kinh Bắc, bài “Văn sách thi đình” của Vũ Kiệt được triều đình coi như kiệt tác nói về sách lược trị nước, an dân, được lưu truyền làm mẫu cho các sĩ tử sau này học tập.
Vũ Kiệt đã vượt qua đề thi “Đế vương trị thiên hạ” của nhà vua với bài viết dài hơn chục nghìn chữ, vượt xa mức quy định tối thiểu ba nghìn chữ.
Trong phạm vi bài văn, ông thể hiện được tài kinh bang tế thế, nhìn xa trông rộng của bản thân, đồng thời đưa ra những biện pháp giải quyết nhiều vấn đề lớn của xã hội lúc bấy giờ.
Chẳng hạn, phần nói về giáo dục, nhà vua đã hỏi: Sách xưa có câu thầy nghiêm thì việc học đạo mới được tôn kính. Nhưng hiện tại, nho sinh lại cảm thấy xấu hổ khi đến học thầy, cốt làm những chuyện họa may hoặc qua tuần, qua tháng lại đổi thầy.
Video đang HOT
Một nho sinh mà chưa bao giờ biết gò mình trong việc tu chỉnh, khi đạt được danh vọng ở triều đình thì ít tuân theo lễ nghĩa. Đạo làm thầy bị bỏ rơi sao mà lâu thế, làm thế nào để cứu vãn được?
Vũ Kiệt trả lời rằng: “Thần nghe, cái học của người xưa nhất thiết phải có thầy, người thầy làm nhiệm vụ truyền đạo, thụ nghiệp nêu lên những chỗ nhầm lẫn, giải thích những điều tôn nghi trong sách vở. Các ngành, nghề, ngay cả những nghề vụn vặt cũng không thể không có thầy được, huống hồ người theo học đạo Nho”.
Ông nói rằng kẻ sĩ phải thấy mình được vinh hạnh, càng chăm lo việc thực học. Lúc chưa thành đạt thì sống theo đạo lý thông thường để chờ thời gặp mệnh, không để mất phẩm chất riêng. Lúc đã được tin dùng thì phải giữ đúng danh vị và làm việc thực sự, không thể để mất cái điều mà mình mong muốn.
Ông cũng nêu những tồn tại của giáo dục lúc bấy giờ: Cũng có khá nhiều người làm thầy tư chất kém cỏi, văn vẻ vụng về. Cái mà học trò cần là sự uyên bác nhưng người thầy lại có kẻ nông xoàng, tài cán thô thiển.
“Đạo làm thầy không vững như thế còn lạ gì khi thấy sĩ tử xấu hổ việc đi học… Tâm thật đã mất trước khi ra làm quan rồi, sau khi ra làm quan còn tìm sao được tiết tháo và phong độ của họ…”, Vũ Kiệt nêu vấn đề.
Trạng nguyên Vũ Kiệt còn vạch ra hướng để khắc phục những tồn tại ấy: “Thần mong bệ hạ đạo làm thầy phải được tuyển chọn kỹ càng. Việc nuôi dạy sĩ tử phải đúng hướng… Tìm nhân tài trước hết phải chú ý đến mặt đức hạnh, phế truất kẻ phù hoa… Người dùng lời gian dối để trau chuốt, dứt khoát không dùng. Người dám nói thẳng… thì có thể thu nhận”.
Trạng nguyên Vũ Kiệt được ca ngợi là “bậc thiên tài kiệt xuất, đức độ vẹn toàn”, tấm gương sáng cho hậu thế noi theo.
Ngôi làng quê ông có tên Nôm là Vít nên dân gian quen gọi ông là Trạng Vít. Hiện nay, tên ông được đặt cho nhiều công trình ở huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Bài văn đỗ trạng của Vũ Kiệt là kiệt tác nói về sách lược để trị nước, an dân, đặc biệt về lĩnh vực giáo dục đào tạo và sử dụng nhân tài. Quan điểm đó đến nay còn nguyên giá trị.
Tên tuổi của ông không chỉ được khắc trên bia đá ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám (Hà Nội) hay Văn Miếu ở Bắc Ninh, mà còn đi vào lịch sử khoa bảng nước nhà với tư cách là một trong những bậc nhân tài kiệt xuất.
Theo Zing
Muốn thi trắc nghiệm Sử điểm cao, đọc kỹ sách giáo khoa
Thi THPT quốc gia năm nay, Lịch sử là một trong những môn lần đầu thi trắc nghiệm. Để đạt điểm cao, thí sinh cần đọc kỹ sách giáo khoa, nắm vững khái niệm, bản chất của sự kiện.
Theo phương án thi THPT quốc gia năm nay, thí sinh có thể đăng ký thi một hoặc cả hai bài thi Khoa học tự nhiên (KHTN) và Khoa học xã hội (KHXH). Trong đó, bài thi KHXH gồm Lịch sử, Địa lý và Giáo dục công dân là những môn lần đầu thi trắc nghiệm.
Mỗi thí sinh sẽ thực hiện liên tiếp 3 môn thi trong thời gian 150 phút với mỗi môn thi 40 câu hỏi. Bộ GD&ĐT đã hướng dẫn chương trình, nội dung thi tập trung trong sách giáo khoa lớp 12.
Tuy nhiên, đến thời điểm này, nhiều học sinh, giáo viên vẫn hoang mang vì từ khi bộ công bố phương án thi đến khi kỳ thi diễn ra chỉ có 10 tháng để cả cô và trò phải thay đổi cả cách dạy lẫn cách học.
Nhiều áp lực
Giáo viên dạy Lịch sử Trung tâm Giáo dục Thường xuyên quận 9, TP.HCM chia sẻ nỗi khổ khi phải "áp", "rèn" học sinh thay đổi cách học, tư duy cho kịp kỳ thi.
Giáo viên này nói: "Đầu vào thấp nhưng học sinh trung tâm giáo dục thường xuyên vẫn phải thi đề chung với học sinh các trường THPT, thậm chí là học sinh trường chuyên nên giáo viên gặp nhiều áp lực".
Học sinh tham quan tìm hiểu lịch sử Hoàng Thành Thăng Long. Ảnh: Hồng Vĩnh.
Cũng theo giáo viên này, từ khi có phương án thi, bài kiểm tra 1 tiết, giữa kỳ, kết thúc học kỳ có tới 70% trắc nghiệm, 30% tự luận để rèn học sinh. Tuy nhiên, giáo viên mới chỉ dè dặt ra đề dễ không dám ra đề khó. Vậy nhưng, trong số đó, có tới 1/3 học sinh tích bừa đáp án.
Giáo viên này lo lắng: "Thi trắc nghiệm sẽ nhẹ nhàng hơn cho thí sinh nhưng khi học xong, các em sẽ quên hết, không ghi nhớ được gì".
Một giáo viên dạy Lịch sử ở trường THPT Chu Văn An, Hà Nội cho rằng, việc thay đổi phương thức thi môn này sang trắc nghiệm là phù hợp, bởi lẽ nó sẽ nhẹ nhàng hơn cho thí sinh. Đến thời điểm này, cả giáo viên và học sinh không còn nhiều băn khoăn, lo lắng.
Câu hỏi có đáp án gây nhiễu khó hơn
Lâu nay, các bài Lịch sử thường hay yêu cầu học sinh ghi nhớ sự kiện, ý nghĩa lịch sử mà quên gợi mở cho học sinh cách tự nhìn nhận, đánh giá vấn đề. Vì thế, nhiều em sẽ cảm thấy môn học giáo điều, khô cứng.
GS.TSKH Vũ Minh Giang
Theo đặt hàng của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, thạc sĩ Nguyễn Vũ (trường THPT chuyên Quốc học Huế) và thạc sĩ Thái Thị Lợi (THPT Đồng Hới - Quảng Bình) đã viết cuốn sách 1.800 câu trắc nghiệm Lịch sử. Sách sẽ là nguồn tài liệu tham khảo cho học sinh lớp 12 thi môn Lịch sử trong tổ hợp KHXH năm nay.
Thầy Nguyễn Vũ cho biết toàn bộ câu hỏi trắc nghiệm được thầy và cô Lợi ra hoàn toàn trong sách giáo khoa. Có bài, thầy ra 30 câu hỏi nhưng cũng có bài có tới 100 câu trắc nghiệm xoay quanh các sự kiện, khái niệm, ý nghĩa lịch sử.
Các câu hỏi cũng được phân loại theo dạng nhận biết, đọc hiểu, tư duy thấp và vận dụng cần theo đúng yêu cầu của Bộ GD&ĐT về đề thi trắc nghiệm.
Ngoài nội dung kiến thức cơ bản của từng bài, còn có các câu hỏi móc xích, so sánh các sự kiện lịch sử, các giai đoạn lịch sử với nhau.
Theo thầy Vũ, mỗi câu hỏi trắc nghiệm sẽ có 4 đáp án. Trong đó, một đáp án đúng, 3 đáp án khác có thể hoàn toàn sai hoặc gây nhiễu (gần đúng với đáp án). Học sinh nắm không chắc sẽ hoang mang không biết nên chọn đáp án nào. Trong khi đó, với 40 câu hỏi, thí sinh chỉ có 50 phút để làm bài không có nhiều thời gian để tư duy, suy nghĩ.
Thầy Vũ cho rằng tuy viết sách như một tài liệu thêm cho học sinh ôn tập cũng như rèn cho học sinh kỹ năng làm bài thi trắc nghiệm trong thời gian ngắn nhưng thầy khuyên, trước hết học sinh phải có kiến thức nền trong sách giáo khoa.
Cô Nguyễn Thị Huyền Thảo, giáo viên dạy Lịch sử trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa TP.HCM, cũng cho rằng trong 4 đáp áp thì kỹ năng quan trọng nhất là học sinh phải biết phân tích đáp án đúng để tích vào.
Để làm được điều này, trước hết, học sinh phải đọc kỹ sách giáo khoa để hiểu đồng thời biết kết nối các sự kiện với nhau tránh nhầm lẫn. Cô Thảo cũng cho rằng phương thức thi trắc nghiệm sẽ giúp thí sinh cảm thấy nhẹ nhàng hơn, tuy nhiên cũng đòi hỏi học sinh phải đọc sách và tư duy nhiều hơn mới đạt điểm cao.
GS.TSKH Vũ Minh Giang (ĐHQG Hà Nội) đang chủ trì dự án thay đổi cách dạy, học môn Lịch sử trong trường phổ thông cho biết, lâu nay, các bài Lịch sử thường hay yêu cầu học sinh ghi nhớ sự kiện, ý nghĩa lịch sử mà quên gợi mở cho học sinh cách tự nhìn nhận, đánh giá vấn đề. Vì thế, nhiều em sẽ cảm thấy môn học giáo điều, khô cứng.
Nhóm nghiên cứu gồm các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu lịch sử đang làm việc tích cực cho phần ý tưởng, chương trình đổi mới dạy học môn này. Khi hoàn chỉnh sẽ được vận dụng trong đổi mới dạy học Lịch sử trong trường phổ thông.
Theo Nguyễn Hà / Tiền Phong
Kỳ thi đầu tiên và tấn bi kịch của thái sư Lê Văn Thịnh Sau hàng thế kỷ, kết cục bi thương mà thái sư Lê Văn Thịnh phải đón nhận vẫn khiến hậu thế đau xót. Sau khi Thái tổ Lý Công Uẩn dời đô về Thăng Long năm 1010, việc xây dựng triều chính phải làm từ đầu, nền giáo dục nước nhà cũng từng bước hình thành. Năm 1075, vua Lý Nhân Tông cho...