Vén màn sự thật về ‘đại ác nhân’ Imhotep trong X.ác ư.ớp Ai Cập, liệu lịch sử có như lời đồn?
Trong loạt phim X.ác ư.ớp Ai Cập, Imhotep là nhân vật được xây dựng như một kẻ có quyền lực, sức mạnh nhưng vô cùng độc ác.
Tuy nhiên, nhiều người đã không khỏi kinh ngạc khi biết về những điều nhân vật có thật trong lịch sử này đã làm được cho “xứ sở của các kim tự tháp”.
Hai phần đầu của bộ phim X.ác ư.ớp Ai Cập lần lượt ra mắt vào năm 1999 và 2001 đã tạo được nhiều tiếng vang lớn. Trong đó, nhân vật phản diện Imhotep là yếu tố không thể thiếu để dẫn đến thành công đó.
Sau bộ phim người ta nhớ tới Imhotep như một gã tư tế độc ác có pháp lực vô biên sở hữu một đội quân bất tử. Tuy nhiên, khác xa với hình tượng được xây dựng trên phim, một người có tên Imhotep thực sự từng sống dưới trướng vị vua thứ hai của triều đại thứ ba – vua Djoser, lại hoàn toàn trái ngược.
Imhotep – nhân vật có thật của Ai Cập (2667-2600 TCN) được biết đến là một polymath Ai Cập (polyath là một chuyên gia về nhiều lĩnh vực), ông là tể tướng, thầy tu, kiến trúc sư, nhà chiêm tinh, hiền triết và là cả một nhà nghiên cứu y khoa,…
Ông cũng là người Ai Cập duy nhất ngoài Amenhotep được thần thánh hóa hoàn toàn, trở thành vị thần của trí tuệ và y học vì những đóng góp của mình trong suốt khoảng thời gian phục vụ nhiều đời Pharaoh.
Imhotep – Vị bác sĩ đâu tiên trong lịch sử thế giới?
Trong lịch sử Ai Cập cổ đại, dưới quyền các vị vua Ai Cập, Imhotep được biết đến là một trong những nhân vật đặc biệt, một học giả vĩ đại của nền văn hoá sông Nin. Sống vào khoảng năm 2650 trước Công nguyên, Imhotep được biết đến là nhà kiến trúc sư, nhà thiên văn học, thầy tu nổi tiếng, cận thần của nhiều đời Pharaon và là tể tướng dưới thời Pharaon Zoser song ít ai biết rằng Imhotep còn là vị bác sĩ đầu tiên trong lịch sử Ai Cập cổ đại và thế giới.
Imhotep sinh ở Ankhatowa – một làng mạc được hình thành từ rất sớm ở vùng ngoại ô Memphis – Ai Cập (một số sách viết rằng ông đến từ ngôi làng Gebelein – phía Nam thành phố Thebes, Ai Cập) còn có tên khác là Li-em-hotep, theo tiếng Ai Cập có nghĩa là người đến trong hoà bình. Cha ông là một kiến trúc sư có tên Kanofer, mẹ là một người phụ nữ xuất thân từ vùng Mendes tên là Khreduonkh. Khi trưởng thành, Imhotep cưới một người vợ có tên là Ronfrenofert và với sự thông minh, khả năng tính toán và năng khiếu của mình, sự nghiệp của ông nhanh chóng phát triển.
Với rất nhiều đóng góp cho Ai Cập cổ đại, Imhotep là người đã viết nên cuốn sách đầu tiên liên quan đến y học của Ai Cập. Trong cuốn sách này, ông đã đề cập đến việc chữa trị các vết thương, gãy xương, thậm chí cả u nhọt… Ông được xem là người sáng lập nên y học Ai Cập.
Tài liệu y tế có tên “Edwin Smith Paccorus” được cho là do Imhotep biên soạn.
Ông đã từng được biết đến là tác giả của nhiều phương pháp chữa trị vết thương và là người phát minh ra loại giấy viết đầu tiên của Ai Cập – giấy Papyrus. Trên loại giấy này, Imhotep đã ghi lại hơn 90 thuật ngữ liên quan đến giải phẫu sinh vật và mô tả lại cách chữa trị hơn 48 loại thương tích, bệnh lý.
Vào thời kỳ đỉnh cao trong sự nghiệp y học, Imhotep là người đã lập ra trường học chuyên dạy các cách thức chữa trị vết thương đầu tiên tại Memphis, Ai Cập. Trường học về y học của Imhotep cùng với nơi thờ cúng mang đậm chất văn hoá tín ngưỡng của Ai Cập cổ đại do Imhotep lập nên đã tồn tại và phát triển trong hàng nghìn năm. Theo ghi chép còn lưu lại, tất cả những sự kiện có liên quan đến quá trình nghiên cứu về y thuật của Imhotep đều diễn ra từ 2200 năm trước khi cha đẻ của ngành y học phương Tây – Hippocrates được sinh ra.
Nghiên cứu về lịch sử Ai Cập cổ đại và những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Ai Cập, nhà sử học William Osler cho biết: Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân loại được biết đến một người đã nghiên cứu về y thuật từ hơn 2000 năm trước. Trong quá trình tiến hành y thuật của mình, Imhotep đã chẩn đoán và chữa trị khoảng 200 loại bệnh, trong đó khoảng 15 bệnh liên quan đến dạ dày, đường ruột, 11 bệnh về bàng quang, 10 bệnh liên quan đến trực tràng, 29 bệnh về mắt, 18 loại bệnh về da, tóc, móng và lưỡi.
Video đang HOT
Đặc biệt, vào thời đó, Imhotep đã từng nghiên cứu và chữa trị cả những căn bệnh phức tạp hơn các thương tích, n.hiễm t.rùng thông thường như: lao phổi, sỏi mật, viêm ruột thừa, gút và viêm khớp. Giáo sư Osler còn phát hiện ra rằng mặc dù thời đó y học chưa xuất hiện, song người Ai Cập cổ đã rất am hiểu về giải phẫu sinh vật.
Vị tể tướng nổi tiếng vương triều Ai Cập còn được coi như một thần y.
Chính cách ướp xác và bảo quản các bộ phận x.ác ư.ớp của người Ai Cập cổ đã chứng minh trình độ hiểu biết về giải phẫu sinh vật của những người thời đó. Một trong những người có cống hiến rất quan trọng vào sự phát triển của qui trình giải phẫu và ướp xác của Ai Cập thời cổ đại đó chính là Imhotep. Vị thầy tu quyền lực của Ai Cập không chỉ tinh thông thiên văn, kiến trúc, mà còn rất am hiểu về giải phẫu. Imhotep biết rất rõ vị trí các cơ quan nội tạng trong cơ thể cũng như cấu tạo và cơ chế hoạt động của hệ tuần hoàn.
Chính ông đã tiến hành nhiều ca giải phẫu trên x.ác ư.ớp và làm công việc của một nha khoa. Trong các tài liệu cổ được tìm thấy tại Ai Cập có ghi chép lại rằng: Ông cũng am hiểu cả về dược học và đã tự mình chiết xuất thuốc chữa bệnh từ các loại cây. Minh chứng cho sự kiện này là việc người dân Ai Cập tôn thờ Imhotep như một vị thần, đền thờ của ông từng là trung tâm truyền dạy về y thuật cho các tín đồ và những người tôn thờ ông.
Imhotep – Kiến trúc sư của Kim tự tháp Ai Cập cổ đại
Ngoài nổi tiếng với những công trình về y học, dưới triều đại của vua Djoker (khoảng năm 2670 trước Công nguyên), bằng tài năng thiên bẩm của mình, Imhoted đã trở thành Tể tướng của vua Ai Cập, Đổng lý Đại Cung điện, Quý tộc gia truyền, Thầy tế cao cấp của Heliopolis, Người xây dựng, Trùm thợ mộc, Trùm điêu khắc và trùm phường thợ làm bình.
Imhotep là kiến trúc sư của Kim tự tháp Djoser (hay còn được biết đến là Kim tự tháp Step), một trong những công trình bằng đá nguyên khối cổ nhất thế giới. Số lượng nhân công để xây các kim tự tháp này được ước tính vào khoảng từ vài chục nghìn cho tới hàng trăm nghìn người.
Về sau này, người ta biết tới Đại kim tự tháp Giza như công trình kiến trúc vĩ đại bậc nhất nhân loại bởi sự độc đáo đầy bí ẩn trong cách xây dựng nó. Nhưng thực tế, ít ai biết, kim tự tháp Djoser mới là kim tự tháp đầu tiên và nó cũng là công trình đặt nền móng quan trọng trong việc thiết kế các kim tự tháp sau này. Và người được trao trọng trách thiết kế không ai khác chính là tể tướng Imhotep.
Trước thời đại lúc bấy giờ, những kiến trúc an táng thường được xây theo hình chữ nhật với phần mái phẳng và dốc ở các mặt từ gạch bùn hoặc đá (thường được gọi là mastabas). Nhưng khi Imhotep bắt tay vào công việc, ông đã quyết định thay đổi hoàn toàn để đưa ra những cải tiến đặc trưng.
Theo Wikipedia, Kim tự tháp Djoser được khởi công xây dựng từ năm 2630 đến năm 2611 trước công nguyên. Khu phức hợp có diện tích 15 ha và lớn gấp 2,5 lần thành phố Heirakonpolis, được bao quanh bởi một bờ tường bằng đá vôi, cao khoảng 10,5 mét và dài hơn 1.600 mét. Phức hợp kim tự tháp của Djoser có 13 cánh cửa giả và chỉ có duy nhất một lối vào ở phía đông.
Các cửa giả là nơi để linh hồn của vị vua đó có thể bước qua thế giới bên kia. Lối chính để vào rất hẹp, dọc hai bên là những trụ đá để đỡ mái trần bằng đá vôi, cao hơn 6 mét. Giữa mỗi cột là một phòng nhỏ, là đại diện cho 1 tỉnh của Thượng và Hạ Ai Cập. Lối vào dẫn đến một khoảng sân rộng. Bên phải của khoảng sân này khi đi hết lối vào chính là kim tự tháp của Djoser. Bên trái của sân là một phòng mộ, được gọi là Buồng mộ phía nam, được cho là nơi ẩn náu của linh hồn Djoser, xây bằng đá granite.
Tất nhiên để làm được điều này là một thách thức không nhỏ đối với mọi kiến trúc sư chứ không riêng gì Imhotep. Vấn đề đặt ra ở đây là làm sao để cân đối được trọng lượng khổng lồ đến từ 6 mastabas trên mà vẫn giữ được kết cấu thống nhất của kim tự tháp, để nó không bị sụp đổ sau thời gian dài.
Khi hoàn thành, Kim tự tháp Step cao 204 feet (tương đương 62 mét) và là cấu trúc cao nhất thời bấy giờ. Khu phức hợp xung quanh bao gồm một ngôi đền, sân trong, đền thờ và khu sinh hoạt cho các linh mục có diện tích lên tới 16 hecta và được bao quanh bởi một bức tường cao 30 feet (10,5 mét).
Và kết quả rõ nhất cho sự thành công của Imhotep chính là sự tồn tại cho tới tận ngày nay của kim tự tháp Step. Dù trải qua nhiều tổn hại đến từ cả thời gian lẫn con người nhưng Step vẫn sừng sừng đứng đó sau hơn 4.600 năm.
Quần thể kim tự tháp Djoser (Step).
Không ngẫu nhiên mà người đời sau biết đến sự vĩ đại của Imhotep. Vua Djoser ấn tượng với sự sáng tạo của Imhotep đến nỗi ông đã bỏ qua t.iền lệ cổ xưa rằng chỉ có tên của nhà vua xuất hiện trên các di tích và cho phép khắc tên Imhotep lên đế tượng. Đây được xem là niềm vinh dự có một không hai đối với bất cứ người Ai Cập nào.
100 năm sau khi ông qua đời, Imhotep đã được tôn lên như một vị thần y thuật của Ai Cập, khoảng 2000 năm sau khi ông c.hết, vị trí của Imhotep đã thay thế cả Nefertum trong bộ ba thần được thờ ở Memphis, Ai Cập và cái tên Imhotep có mối quan hệ gắn chặt với những tên thần Thoth – vị thần của sự thông thái, học vấn, Ibises.
Khác với hình ảnh trên phim, Imhotep là vị quan có thật trong lịch sử làm việc dưới thời pharaoh Ai Cập Djoser. Tính cách và tài năng của Imhotep khác hoàn toàn với nhân vật trong phim ảnh.
Ông là một trong số rất ít nhân vật được tạc tượng thánh sau khi c.hết. Imhotep qua đời dưới thời trị vì của Pharaon Huni – triều đại cuối cùng của Ai Cập cổ đại. Nơi chôn cất t.hi h.ài của Imhotep được đặt tại Saqqara, Ai Cập, song cho tới nay, không ai thực sự biết vị trí chính xác ngôi mộ của ông.
Linh vật ít người biết trong văn hóa Ai Cập cổ đại
Trong quan niệm của người Ai Cập cổ đại, có rất nhiều loài vật được thần thánh hóa. Khi một loài nào đó được xem là linh vật, con người sẽ không dám ăn thịt chúng.
Trong văn hóa của người Ai Cập cổ đại, có rất nhiều loài vật thiêng. Ảnh:Explore Luxor.
Ở Ai Cập cổ đại, cá chình được xem như loài ác quỷ hùng mạnh, sánh ngang với các vị thần và là món ăn cấm kị. Một sinh vật di chuyển dễ dàng bên dưới mặt nước lấp lánh của dòng sông Nile thần thánh, trườn qua lớp trầm tích của chính sự trường tồn. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy x.ác ư.ớp cá chình trong những cỗ quan tài tí hon được đặt nằm yên giấc ngàn thu bên cạnh những pho tượng thần nhỏ làm bằng đồng thiếc.
Quả thực, ở Ai Cập cổ đại, có nhiều loài vật được thánh hóa. Thần Mặt Trời Ra thường được khắc họa với cái đầu chim ưng. Thần âm phủ Anubis có cái đầu của một con chó rừng. Thoth, thần trí tuệ, được gắn cho cái đầu của một con cò quăm. Nữ thần tình yêu Bastet có cơ thể phụ nữ và cái đầu của một con mèo.
Tất nhiên, mỗi loài vật đại diện cho một tính cách khác nhau, nhưng tự thân sự mập mờ trong lằn ranh giữa con người và động vật cũng là một dấu hiệu của tính thần thánh. Thần Atum - ngài ngự ở Heliopolis, là cha của tất cả các vị thần và của các pharaoh - là vị thần gắn liền với loài cá chình.
Trong một hình vẽ, Atum có đầu người với chòm râu nhọn hoắt, đội một chiếc vương miện biểu thị địa vị thần thánh của mình, và đằng sau cái mang đang xòe rộng đầy đe dọa của một con rắn hổ mang, cơ thể ông chính là thân hình dài và mảnh của một con cá chình, với đầy đủ những chiếc vây như thật. Cái đầu người và thân mình cá chình kết hợp với nhau để tượng trưng cho một dạng nhất thể, sự hợp nhất các thế lực âm và dương.
Ở La Mã cổ đại, quan niệm về loài cá chình cũng bị chia rẽ. Một số người từ chối ăn cá chình, giống người Ai Cập, nhưng không phải vì nó mang tính thần thánh mà vì họ coi là dơ bẩn và gớm ghiếc. Có lẽ vì loài cá chình từng thường được tìm thấy gần các cửa cống thoát nước. Có lẽ vì da cá chình phơi khô từng được dùng làm một loại dây da để đ.ánh những đ.ứa t.rẻ không vâng lời.
Cuốn sách Phúc âm của loài cá chình của Patrick Svensson. Ảnh: H.H.
Nhiều người La Mã có vẻ ưa thích cá lạc (Conger conger) hay còn gọi là cá chình moray, một loài có họ hàng với cá chình, nhưng dù là loài nào, cá chình vẫn thường bị gắn với những thứ đen tối và ma quỷ.
Cả Pliny Già và Seneca Trẻ đều mô tả lại việc viên chỉ huy quân đoàn La Mã Vedius Pollio, người bạn của Hoàng đế Augustus, có thói quen trừng phạt nô lệ bằng cách ném họ vào bể chứa đầy cá chình. Nhưng con cá khát m.áu này sẽ ăn thịt họ đến no căng; sau đó, chúng được dọn lên để phục vụ những vị khách của Vedius Pollio như một món ăn đặc biệt, béo ngậy và xa hoa.
Là một loài cá, nhưng đồng thời còn là một thứ khác nữa. Một con cá trông tựa như rắn, như giun, hay một quái vật biển ngoằn ngoèo. Loài cá chình luôn đặc biệt. Nhất là trong truyền thống Cơ Đốc giáo, nơi mà ngay từ thuở ban đầu cá đã là một trong những biểu tượng trung tâm, thì loài cá chình vẫn được coi như một thứ riêng biệt.
Người ta nói rằng, trong thế kỷ đầu tiên sau khi Chúa giáng sinh, những người Cơ Đốc đầu tiên đã dùng cá như một dấu hiệu bí mật. Vì bị bức hại nhiều nơi nên họ cần duy trì cảnh giác ở một mức độ nhất định. Do đó, khi hai tín đồ gặp nhau, một người sẽ vẽ một đường vòng cung trên mặt đất.
Nếu đối phương cũng vẽ một đường tương tự ngược chiều, hai đường sẽ hợp lại thành hình con cá cách điệu và họ biết mình có thể tin nhau. Ta có thể thấy biểu tượng này trong hầm mộ của Thánh Callixtus và Thánh Priscilla ở Rome, hai hầm mộ có từ tận thế kỷ đầu tiên của Công Nguyên.
Cá có ý nghĩa vì một số lý do. Rất lâu trước khi Chúa giáng sinh, cá đã là biểu tượng may mắn trong nền văn hóa Địa Trung Hải. Với sự xuất hiện của Jesus, cá còn trở thành biểu tượng của sự hồi sinh và thú tội.
"Hãy theo ta, và ta sẽ làm cho ngươi trở thành kẻ đ.ánh lưới trong loài người", Jesus nói như thế với các tông đồ đầu tiên của mình, Simon và Andrew, trong sách Phúc Âm. Những người mới được cứu rỗi được gọi là "cá con"; và cũng trong sách Phúc Âm, Jesus đã so sánh việc đi vào thiên đàng tựa như việc đ.ánh cá: "Thiên đàng giống như tấm lưới được thả xuống hồ để bắt mọi loại cá.
Khi lưới đầy, người đ.ánh cá sẽ kéo lên bờ. Rồi họ sẽ ngồi xuống, lựa cá ngon cho vào giỏ và bỏ cá dở đi. Đó là điều sẽ xảy ra vào ngày tận thế. Các thiên thần sẽ đến và tách những kẻ xấu xa ra khỏi những người thiện lương".
Cá cũng đóng vai trò nổi tiếng trong các câu chuyện về phép màu của Jesus, bao gồm cả câu chuyện về bánh mì và cá, trong đó ngài đã cho năm ngàn người ăn no chỉ bằng hai con cá và năm ổ bánh mì. Hoặc khi Jesus, sau khi phục sinh, đã hiện thân với các tông đồ bên hồ Tiberias và cho họ cá để thuyết phục rằng đó chính là ngài.
Trong tiếng Hy Lạp, từ ichthys có nghĩa là cá. Bấy nay, từ này cũng được hiểu như chữ viết tắt của câu Iesous Christos Theou Yios Soter, nghĩa là "Jesus Christ, Con của Chúa, Đấng Cứu thế".
Nhưng tất cả những chuyện này liên quan tới cá chứ không phải cá chình, và nhiều điều đã chỉ ra rằng những người Cơ Đốc đầu tiên có sự phân biệt giữa cá chình và cá nói chung. Mọi điều tốt đẹp mà cá đại diện trong truyền thống Cơ Đốc giáo đều dành cho những loài cá khác cá chình.
Cá chình không phải cá; nó là thứ khác. Kể cả nếu cá chình có từng được xem là một loài cá, thì nó cũng không phải loài cá như bao loài cá khác. Nó không có những đặc điểm thường gặp của một con cá. Nó không có hình dạng hoặc hành vi giống những con cá bình thường.
Những bí ẩn về tượng Nhân sư vĩ đại cạnh Kim tự tháp Giza của Ai Cập Với chiều cao gần 20m tính từ mặt đất đến đỉnh đầu và dài hơn 72m tính từ chân trước đến đuôi, tượng Nhân sư Vĩ đại là một trong những công trình điêu khắc cao lớn và lâu đời nhất thế giới. Bức tượng Nhân sư Vĩ đại nằm cạnh Kim tự tháp Giza ở Ai Cập. (Nguồn: Vietnam ) Với thân...