Ưu tiên chứng chỉ IELTS: Có thiếu công bằng với học sinh nông thôn?
Việc mở rộng ưu tiên xét tuyển và xét tuyển thẳng với thí sinh có các chứng chỉ tiếng Anh quốc tế như TOEFL, IELTS có thể sẽ thúc đẩy phong trào học tiếng Anh. Tuy nhiên điều này có tạo ra sự bất bình đẳng đối với học sinh nông thôn?
Bùng nổ ưu tiên xét tuyển thí sinh có chứng chỉ tiếng Anh quốc tế
Tuần qua, hàng loạt trường đại học đã công bố phương án tuyển sinh đại học chính quy năm 2021. Bên cạnh các phương thức xét tuyển như dựa vào kết quả kỳ thi tốt nghiệp THPT, kết quả học tập (học bạ), kỳ thi đánh giá năng lực… nhiều trường đã mở rộng ưu tiên xét tuyển thậm chí là tuyển thẳng thí sinh có chứng chỉ đánh giá năng lực quốc tế như A-Level, SAT… hoặc có chứng chỉ tiếng Anh TOEFL, IELTS…
Theo ghi nhận của PV. VOV2, hiện có khoảng 30 trường đại học thông báo ưu tiên và xét tuyển thẳng thí sinh có chứng chỉ IELTS từ 4.0 – 6.5. Đơn cử như trường đại học Bách Khoa Hà Nội, thí sinh có chứng chỉ IELTS Academic đạt từ 6.5 trở lên (hoặc tương đương) và có điểm trung bình chung học tập từng năm học lớp 10, 11, 12 đạt 8.0 trở lên sẽ được xét tuyển thẳng vào các ngành Ngôn ngữ Anh và Kinh tế quản lý.
Trường Đại học Ngoại ngữ (Đại học Quốc gia Hà Nội) thực hiện xét tuyển thẳng thí sinh có chứng chỉ quốc tế SAT (từ 1100/1600), A-Level, ACT (từ 22/36) và IELTS (từ 6.0) và các chứng chỉ ngoại ngữ quốc tế tương đương.
Học viện Ngoại giao xét tuyển thẳng những thí sinh có điểm trung bình cộng kết quả học tập của 3/5 kỳ học lớp 10, 11 và học kỳ I năm học lớp 12 đạt từ 8 trở lên và có chứng chỉ IELTS academic (hoặc tương đương) đạt từ 7.0 trở lên…
Mùa tuyển sinh đại học năm 2021, nhiều trường đại học dành chỉ tiêu đáng kể ưu tiên xét tuyển thí sinh có chứng chỉ tiếng Anh TOEFL, IELTS.
PGS.TS Vũ Thị Hiền, trưởng phòng quản lý đào tạo (Đại học Ngoại thương) cho rằng, hiện nhiều chương trình đào tạo của các trường đại học hiện nay sử dụng tiếng Anh là ngôn ngữ chính, thậm chí là ngôn ngữ giảng dạy. Ví dụ, đại học Ngoại thương 17/32 chương trình đào tạo dạy bằng ngoại ngữ, trong đó có 14 chương trình dạy bằng tiếng Anh. Do vậy, việc xét tuyển thí sinh có năng lực ngoại ngữ để theo học được các chương trình đào tạo này là điều quan trọng.
“Các chứng chỉ tiếng Anh quốc tế như TOEFL, IELTS có độ tin cậy cao nên việc xét tuyển dựa vào các chứng chỉ này sẽ là một xu hướng của các trường đại học”. – PGS.TS Vũ Thị Hiền nhấn mạnh.
PGS.TS Trần Trung Kiên, trưởng phòng tuyển sinh (ĐH Bách Khoa Hà Nội) cũng cho rằng, việc sử dụng các chứng chỉ tiếng Anh quốc tế là xu hướng của tất cả các trường đại học trên thế giới chứ không riêng gì Việt Nam. Đối với trường đại học Bách Khoa Hà Nội, nếu thí sinh sử dụng chứng chỉ IELTS để cộng điểm (hay quy đổi điểm) xét tuyển vào các chương trình tiên tiến, chương trình giảng dạy bằng tiếng Anh sẽ là một lợi thế rất lớn không chỉ tăng cơ hội trúng tuyển mà việc học tập sau này sẽ rất thuận lợi.
Học sinh nông thôn lấy tiền đâu để luyện thi TOEFL, IELTS?
Video đang HOT
Theo dõi công tác tuyển sinh đại học trong nhiều năm qua, thầy Vũ Khắc Ngọc cho rằng, việc không còn kỳ thi “2 trong 1″ mà chỉ là kỳ thi tốt nghiệp THPT khiến các trường đại học thiếu những căn cứ “tin cậy” tuyển sinh phù hợp nhu cầu đào tạo của trường mình. Do vậy việc sử dụng chứng chỉ tiếng Anh quốc tế hay các chứng chỉ đánh giá năng lực quốc tế là một giải pháp mà các trường sử dụng để bù đắp lỗ hổng này.
Việc mở rộng ưu tiên xét tuyển, tuyển thẳng thí sinh có các chứng chỉ tiếng Anh quốc tế như TOEFL, IELTS theo thầy giáo Vũ Khắc Ngọc có thể sẽ thúc đẩy phong trào học tiếng Anh. Tuy nhiên điều này vô hình chung tạo ra sự bất bình đẳng đối với học sinh vùng nông thôn hay vùng sâu vùng xa. Học sinh ở những khu vực này khó có điều kiện về tài chính và môi trường học tập thuận lợi để ôn thi chứng chỉ TOEFL hay IELTS.
Thầy Vũ Khắc Ngọc: “Rất nhiều phụ huynh đã cho con tham gia vào cuộc đua luyện thi TOEFL, IELTS từ rất sớm để có chứng chỉ được ưu tiên xét tuyển lớp 10, đại học. Dĩ nhiên điều này cũng có mặt tích cực nhưng bất cứ cái gì làm quá cũng sẽ trở nên méo mó”.
“Có những học sinh ở các tỉnh gần Hà Nội như Bắc Ninh, Hưng Yên… hàng tuần gia đình vẫn phải thuê taxi cho các em lên các trung tâm tiếng Anh ở Hà Nội ôn thi IELTS và để được học giáo viên bản ngữ. Nhưng không phải gia đình nào cũng có điều kiện như vậy. Các trường đại học tuyển sinh dựa trên các chứng chỉ ngoại ngữ quốc tế cần có sự tính toán chi tiết để không cản trở, hạn chế cơ hội của nhóm yếu thế hơn trong xã hội.” – Thầy Vũ Khắc Ngọc chia sẻ.
Trong chương trình Diễn đàn VOV2 (phát sóng ngày 24/03), một thính giả gọi điện tới chương trình cũng tỏ ra lo lắng vì thực tế nhiều gia đình hiện nay không có đủ điều kiện để cho con tham gia cuộc đua luyện thi chứng chỉ TOEFL hay IELTS. Nếu tỉ lệ xét tuyển dựa trên các chứng chỉ tiếng Anh quốc tế tăng cũng có nghĩa cơ hội của những thí sinh không có những chứng chỉ này sẽ bị thu hẹp và đây cũng là một thiệt thòi rất lớn.
Thầy Vũ Khắc Ngọc cho rằng, nếu các trường đại học thực sự quan tâm đến năng lực ngoại ngữ, năng lực tiếng Anh của học sinh thì nên chăng Bộ GD-ĐT hoặc các trường đại học tổ chức các kỳ thi đánh giá năng lực tiếng Anh chung cho học sinh. Như vậy học sinh sẽ có một thước đo ngoại ngữ bằng một kỳ thi chung mà không tốn kém như các chứng chỉ tiếng Anh quốc tế.
Rối quy định chứng chỉ tiếng Anh
Việc chưa có những quy định cụ thể về quy đổi giữa các chứng chỉ tiếng Anh trong nước và quốc tế gây ra nhiều lúng túng cho người lao động và sử dụng lao động.
Sinh viên tại TP.HCM trong giờ học tiếng Anh - ĐÀO NGỌC THẠCH
Chứng chỉ quốc tế hay trong nước?
Nguyễn Hoàng Hải, tốt nghiệp ngành công nghệ thông tin Trường ĐH Khoa học tự nhiên TP.HCM năm 2019 đạt chuẩn đầu ra tiếng Anh của trường với chứng chỉ TOEFL, nhưng khi đi xin việc tại một công ty phần mềm họ lại yêu cầu phải có chứng chỉ IELTS.
"Doanh nghiệp không chấp nhận chứng chỉ TOEFL của em. Họ cũng không có căn cứ nào để quy đổi chứng chỉ trên ra khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc của Việt Nam. Quan trọng là em thấy hầu hết các doanh nghiệp hay nhiều cơ quan không sử dụng khung năng lực này mà chỉ yêu cầu các chứng chỉ quốc tế. Chính vì thế, em phải đăng ký đi học một khóa IELTS để thi lấy chứng chỉ nếu muốn vào làm việc tại công ty này".
Nguyễn Thu Hương, tốt nghiệp ngành tâm lý học Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM, đi xin việc tại một doanh nghiệp nước ngoài, Hương nộp chứng chỉ VNU-ETP với số điểm khá cao do ĐH Quốc gia TP.HCM cấp (chứng chỉ này được công nhận chuẩn đầu ra tại trường), nhưng phía doanh nghiệp lại không chấp nhận mà yêu cầu Hương phải có chứng chỉ IELTS. "Lý do là họ không biết đến chứng chỉ này. Em nộp hồ sơ mấy nơi, các doanh nghiệp đều yêu cầu chứng chỉ phổ biến hơn như IELTS, TOEIC", Hương cho biết.
Theo Hải, hiện có sự rắc rối và không thống nhất trong việc sử dụng các loại chứng chỉ trên ở các đơn vị sử dụng lao động, không chỉ vậy còn có sự khác nhau và vênh nhau về yêu cầu tiếng Anh giữa chuẩn đầu ra của trường ĐH với đầu vào của doanh nghiệp, nên ứng viên chính là người chịu thiệt thòi.
"Nếu đã đặt ra khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc của Việt Nam thì nên có quy định cụ thể rõ ràng mỗi loại chứng chỉ quốc tế tương ứng mức điểm số bao nhiêu thì rơi vào bậc nào của khung năng lực 6 bậc, khi có quy định rồi thì các doanh nghiệp dù yêu cầu chứng chỉ quốc tế như thế nào thì cũng nên căn cứ vào khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc của Việt Nam để tham chiếu thì mới có sự thống nhất", Hải đề xuất.
Sự việc mới đây về một số giáo viên nước ngoài dù có nhiều loại bằng cấp, chứng chỉ tiếng Anh nhưng vẫn chưa đủ điều kiện giảng dạy tại Việt Nam mà một trong những lý do chưa có sự quy đổi, thống nhất giữa quy định chứng chỉ trong nước và quốc tế là thêm một minh chứng cho câu chuyện này.
Chứng chỉ TKT về giảng dạy tiếng Anh hiện cũng chưa có hướng dẫn về việc quy đổi - ẢNH: M.T
Thiếu nhất quán giữa các khung năng lực ngoại ngữ
Ông Nguyễn Minh Trí, giảng viên tiếng Anh Trường ĐH Nguyễn Tất Thành, nhìn nhận: "Hiện đang có sự thiếu nhất quán giữa khái niệm khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc theo chuẩn chung châu Âu (CEFR - Common European Framework for Reference) và khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dành cho Việt Nam khiến người học bị bối rối về bậc ngôn ngữ giữa 2 khung này. Ví dụ, điểm IELTS 6,5 theo chuẩn quốc tế là B2 bậc 4. Trên chứng chỉ cũng có ghi rõ B2 nhưng Việt Nam lại quy đổi thành C1 bậc 5 của người Việt".
Hiện đang có sự thiếu nhất quán giữa khái niệm khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc theo chuẩn chung châu Âu và khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dành cho Việt Nam khiến người học bị bối rối về bậc ngôn ngữ giữa 2 khung này
Ông Nguyễn Minh Trí - giảng viên tiếng Anh Trường ĐH Nguyễn Tất Thành
Ông Trí nhận định: "Việc không có quy định cụ thể về các thang quy đổi cũng gây khó khăn cho người lao động. Ứng viên sẽ dễ bị nhầm lẫn và khi chuẩn bị hồ sơ, ứng tuyển không đáp ứng chính xác yêu cầu của nhà tuyển dụng, làm mất thời gian của cả hai bên".
Ngoài ra, theo ông Trí, còn có tình trạng một số chứng chỉ chưa được phổ biến rộng rãi nhưng được quy đổi và công nhận tương đương ở một số trường. Chẳng hạn kỳ thi APTIS của Hội đồng Anh hay VNU-EPT của ĐH Quốc gia TP.HCM. Điều này dẫn đến thực trạng trường công nhận chứng chỉ nhưng doanh nghiệp không công nhận khiến người học phải bổ sung một chứng chỉ khác nếu muốn được tuyển dụng. Trường hợp của Nguyễn Thu Hương đã nêu ở trên là một ví dụ cho trường hợp này.
Theo ông Nguyễn Duy, giảng viên tiếng Anh thỉnh giảng Trường ĐH Văn Lang, đồng thời là giáo viên tại Trung tâm Anh ngữ The Language Academy, hiện tại ở Việt Nam có 4 loại chứng chỉ tiếng Anh quốc tế được công nhận rộng rãi nhất là IELTS, TOEFL, TOEIC và các chứng chỉ của Cambridge (FCE, CAE, CPE). Các trường đặt chuẩn đầu ra phổ biến nhất là TOEIC đối với các ngành không phải ngôn ngữ, và IELTS với các bạn học ngôn ngữ Anh/sư phạm tiếng Anh.
"Học viên học tại trung tâm tôi dạy thường gặp phải các vấn đề về chứng chỉ khi đi xin việc. Chẳng hạn hầu hết các trường yêu cầu chuẩn đầu ra đối với tiếng Anh là tính theo điểm TOEIC, nhưng cách dạy và luyện thi chứng chỉ này ở một số nơi chưa đảm bảo được việc phát triển kỹ năng nên xảy ra nhiều trường hợp đáp ứng được chuẩn đầu ra của trường nhưng khi đi làm vẫn gặp nhiều trở ngại khi phải sử dụng tiếng Anh. Bên cạnh đó, tiếng Anh mà doanh nghiệp yêu cầu thường khác với tiếng Anh học ở trường, vì mỗi công việc, mỗi doanh nghiệp lại có một mục tiêu sử dụng tiếng Anh riêng, do đó thường đòi hỏi chứng chỉ tiếng Anh khác với chứng chỉ mà các em đã đạt được ở trường ĐH, CĐ. Rất nhiều trường hợp sau khi đi làm rồi vẫn phải đi học tiếng Anh lại từ đầu", ông Nguyễn Duy chia sẻ.
Ông Nguyễn Duy cũng băn khoăn nếu như khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc của Việt Nam chưa thực sự tương thích với khung tham chiếu trình độ ngôn ngữ chung châu Âu (CEFR) thì sẽ gây nhầm lẫn hay tranh cãi. Chẳng hạn sinh viên ngôn ngữ Anh được yêu cầu đạt chuẩn C1 sau khi hoàn thành chương trình học, thì chuẩn C1 này sẽ được tính theo CEFR hay theo khung 6 bậc của Việt Nam? (còn tiếp)
Ý kiến
Cần sớm có hướng dẫn cụ thể
Việc quy đổi điểm IELTS sang khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc của Việt Nam là rất cần thiết vì IELTS được chấp nhận rộng rãi trên thế giới và ở nhiều trường học, cơ quan nước ta. Tôi mong Bộ GD-ĐT cần sớm có hướng dẫn, đồng thời thống nhất với cả các chứng chỉ khác nhằm tránh sự nhập nhằng, chồng chéo và tạo điều kiện thuận lợi cho người học và người lao động.
Thạc sĩ Châu Thế Hữu - Giảng viên tiếng Anh Trường ĐH Ngoại ngữ - Tin học TP.HCM
Càng quy định cụ thể, càng dễ thực hiện
Khái niệm "tương đương" trong chứng chỉ đào tạo ngoại ngữ rất khó thực hiện nếu không có hướng dẫn. "Khái niệm này rất chung và Bộ GD-ĐT cần hướng dẫn rõ những chứng chỉ nào về giảng dạy ngoại ngữ được xem là phù hợp và do đơn vị nào cấp thì được hiểu là phù hợp. Ví dụ, chứng chỉ TESOL về giảng dạy tiếng Anh hiện có rất nhiều đơn vị trong nước dạy như Trường ĐH Sư phạm, Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn nhưng cũng có nhiều đơn vị liên kết nước ngoài để đào tạo cấp chứng chỉ.
Trong khi đó, người học lại không biết rõ chứng chỉ đó do đơn vị đó cấp có được Bộ công nhận hay chưa. Song song đó còn nhiều chứng chỉ về giảng dạy tiếng Anh như TKT, CELTA, DELTA... hiện chưa thấy Bộ hướng dẫn là có đủ năng lực để dạy tiếng Anh ở Việt Nam hay không. Quy định nên càng cụ thể càng dễ làm".
Ông Nguyễn Minh Trí - Giảng viên tiếng Anh Trường ĐH Nguyễn Tất Thành
Cơ hội nhận chứng chỉ IELTS có giá trị toàn cầu từ Kỳ thi Tài năng IELTS Lần đầu tiên, Kỳ thi Tài năng IELTS (The IELTS Talent Contest) do Trung tâm Phát triển Khoa học, Công nghệ và Tài năng trẻ Trung ương Đoàn, Công ty TNHH British Council (Việt Nam) và Công ty TNHH Thương mại và Phát triển Giáo dục Việt Nam phối hợp tổ chức sẽ là cơ hội cho thanh niên Việt Nam nhận chứng...