Ứng dụng công nghệ nuôi trồng hải sản bền vững – Bài cuối: Những mục tiêu sẽ hướng tới
Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam (VSA) khẳng định, cộng đồng 180 doanh nghiệp, các tổ chức khoa học công nghệ, các nhà khoa học và chuyên gia thành viên của VSA nhận thức rằng.
Việt Nam đang đứng trước thời cơ vàng để phát triển nuôi biển công nghiệp, tiến ra làm chủ vùng đặc quyền kinh tế rộng gấp 3 diện tích đất liền, làm giàu cho Tổ quốc.
Biến tiềm năng thành hiện thực
Trong Chiến lược Phát triển Nuôi biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045 đã nêu rõ: Việt Nam có những tiềm năng phát triển vô cùng to lớn các ngành hàng chính trong nuôi biển, bao gồm nuôi những loài cá biển có giá trị kinh tế cao (cá Chim, cá Giò, cá Chẽm, cá Hồng Mỹ, cá Mú, cá Ngừ, cá Cam, cá Tráp…), sử dụng lồng nổi HDPE (chịu được bão cấp 12), các loại lồng chìm và bán chìm đa dạng, hoạt động ổn định trong mọi điều kiện thời tiết ở vùng biển sâu.
Mô hình nuôi cá lồng bè tại huyện đảo Phú Quý (Bình Thuận) vừa cho hiệu quả kinh tế, vừa thu hút sự quan tâm của khách du lịch.
Mục tiêu năm 2030 sẽ phấn đấu đạt sản lượng 600.000 tấn cá biển nuôi; giá trị nguyên liệu 3 – 4 tỷ USD. Tận dụng tiềm năng các vùng cửa sông, phát triển mạnh nuôi cá nước lợ có giá trị cao (cá Nhụ, cá Đối mục, cá Dìa, cá Măng…) theo quy mô công nghiệp trong các khu vực ven biển, tạo sinh kế ổn định cho ngư dân các tỉnh ven biển, góp phần cải tạo môi trường vùng ao nuôi tôm đã bị thoái hóa.
Mục tiêu năm 2030 thu hoạch 200.000 tấn cá nước lợ; giá trị 1 tỷ USD. Nghiên cứu phát triển, du nhập và tiếp tục hoàn thiện công nghệ sinh sản nhân tạo, tổ chức ương nuôi giống chất lượng cao và sử dụng thức ăn nhân tạo phục vụ nuôi tôm hùm, tôm mũ ni và các giáp khác giá trị kinh tế cao trong lồng trong biển hoặc trong các trại với hệ thống RAS trên bờ.
Phát triển mạnh nuôi công nghiệp tập trung 4 loài trai ngọc có giá trị kinh tế cao (Pinctada martensii, P. margaritifera, P. maxima và Pteria penguin) trong các vùng ven biển ít sóng gió. Đồng thời phát triển công nghiệp chế tác và thương mại ngọc trai.
Mục tiêu năm 2030 thu hoạch 200 tấn ngọc (kích thước 7,0 – 10 mm), doanh thu thô 3 – 5 tỷ USD, chế biến thành thương phẩm có thể đạt 8 tỷ USD. Mặt khác đầu tư nghiên cứu sản xuất giống và nuôi một số sản phẩm xuất khẩu, như Bào ngư, Sò huyết, Điệp quạt, Ốc hương, Hầu, Vẹm xanh, Tu hài… kết hợp với bảo tồn một số loài quí hiếm Bàn mai, Trai tai tượng, Ốc gai, Ốc đụn, Ốc mặt trăng, Ốc tù và…
Chú trọng những loài có năng suất và giá trị cao (rong Nho, rong Câu, rong Sụn, rong Mơ) để làm thực phẩm và sản xuất các keo rong như carrageenan, agar, alginate,…cùng những loài rong có đặc tính sinh học đặc biệt phục 6 vụ công nghiệp dược phẩm, mỹ phẩm hữu cơ.
Trồng rong còn hấp thu khí nhà kính, hấp thụ các chất ô nhiễm, làm sạch nước, cản sóng biển xâm thực bờ, tạo môi trường cho các đàn cá trú ẩn, sinh sôi nảy nở. Giải pháp này còn hấp thu CO2 từ khí quyển, đóng góp vào việc ngăn chặn hiện tượng nóng lên của Trái đất.
Liên doanh Tập đoàn Beehive Venture Group (Mỹ) và Công ty TNHH Tư vấn Đầu tư Năng lượng Xanh Việt Nam vừa đề nghị UBND tỉnh Khánh Hòa cho đầu tư cơ sở nuôi tảo biển để chế tạo nhiên liệu sinh học chạy nhà máy phát điện công suất 1.500 MW, chỉ sử dụng 242 ha đất và mặt nước biển.
Video đang HOT
“Tam giác thể chế phát triển”
Phát triển nuôi biển công nghiệp Việt Nam là một cuộc cách mạng mang ý nghĩa đột phá cho kinh tế biển Việt Nam. Nội hàm chủ yếu của cuộc cách mạng đó tập trung chung quanh “tam giác thể chế phát triển”, với chủ thể là doanh nghiệp; động lực là công nghệ tiên tiến và phương thức chủ yếu là tích hợp đa ngành. Do đó cần xây dựng thể chế, chính sách tài chính và cơ sở hạ tầng nhằm phát triển nhanh số lượng, quy mô và chất lượng các doanh nghiệp để dẫn dắt sự nghiệp nuôi biển công nghiệp Việt Nam.
Trong bối cảnh hiện nay, có ba phương thức chính. Đó là lựa chọn các hợp tác xã, hộ gia đình nuôi biển truyền thống đủ năng lực, xây dựng đề án trại nuôi biển để được giao mặt nước biển và cho vay vốn ngân hàng, hỗ trợ đào tạo nhân lực. Chằng hạn, để đạt mục tiêu 600.000 tấn cá biển nuôi vào năm 2030, có thể lựa chọn 2% số các chủ trại nuôi thủ công hiện có, phát triển 1.000 trại nuôi cá biển công nghiệp quy mô nhỏ.
Mỗi trại có 20 lồng tròn HDPE, đường kính 20-25 m, được trang bị xà lan phun thức ăn và các trang thiết bị phụ trợ cùng cơ sở hậu cần trên bờ. Ứng dụng các men vi sinh và chế phẩm sinh học cho thức ăn; chế tạo các phương tiện tích trữ và phun thức ăn bằng khí nén cho từng lồng nuôi cũng như công nghệ sản xuất thức ăn nuôi hải sản ngay trên biển.
Phát triển các công nghệ thu hoạch bằng bơm hút cá chuyên dụng (thay vì đánh lưới), các công nghệ tiên tiến bảo quản và vận chuyển sống và tươi các hải sản giá trị cao, công nghệ giữ siêu tươi và cấp đông nhanh trên biển; công nghệ chế biến các sản phẩm giá trị gia tăng làm sẵn và ăn liền; các công nghệ tinh chiết các chế phẩm giá trị cao phục vụ y khoa, mỹ phẩm, dược phẩm.
Công nghệ sinh hóa chiết suất và tinh chế các chế phẩm sinh học, sinh hóa có giá trị cao từ các hải sản và tận dụng tối đa phụ liệu, phế liệu hải sản, tiến đến xây dựng một ngành công nghiệp không chất thải.
Công nghệ số tự động hóa nuôi biển trong việc tự động quan sát lưới, tình trạng vật nuôi, theo dõi phân tích tính ăn của vật nuôi, tự động điều chỉnh việc cung cấp thức ăn, vị trí lồng bè, thu thập thông số môi trường biển, cảnh báo tình hình an ninh.
Tuy vậy, phát triển nuôi biển công nghiệp không phải là nhiệm vụ của riêng ngành thủy sản hay Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, mà là sự nghiệp chung của tất cả các ngành kinh tế biển và nhiều ngành khác.
Do đó, phương thức tích hợp đa ngành sẽ biến nuôi biển công nghiệp thành “dây lạt xanh” mềm mại và bền chặt để kết nối, huy động và tập trung các nguồn lực tổng hợp thực hiện có hiệu quả và phát huy tác dụng của cuộc cách mạng to lớn này.
Ngành nuôi hải sản phải áp dụng phổ cập công nghệ nuôi đa loài tích hợp (IMTA) trong cùng một khu vực biển (cá, giáp xác, nhuyễn thể, rong biển) để tận dụng tối đa chuỗi thức ăn và tương tác có lợi giữa các loài nuôi, vừa giảm được sức tải môi trường, hạn chế ô nhiễm biển. Nuôi biển cũng cần tích hợp giữa nuôi biển trên biển (ở đới ven bờ, xa bờ, viễn dương), nuôi trong lòng biển (tầng mặt, tầng giữa, tầng đáy và trên nền đáy biển) và nuôi biển trên bờ.
Trong đó, ngành dầu khí phối hợp với nuôi biển nghiên cứu các phương án khả thi sử dụng các dàn khoan dầu khí trên biển đã khai thác hết làm các trung tâm dịch vụ hậu cần cho nuôi biển công nghiệp xa bờ trong khu vực biển sâu chung quanh các dàn khoan, vừa giảm được chi phí tháo dỡ, vừa tăng hiệu quả đầu tư.
VSA cũng đã kiến nghị Chính phủ tổ chức xây dựng Chương trình Mục tiêu Quốc gia Phát triển Nuôi biển Công nghiệp đến năm 2030, thiết lập khung chính sách hỗ trợ thu hút đầu tư phát triển cộng đồng doanh nghiệp nuôi biển (giao quyền sử dụng, cho thuê mặt nước biển.
Hỗ trợ lãi suất, tiếp cận vốn tín dụng trung dài hạn, ưu đãi thuế); hỗ trợ doanh nghiệp phát triển các chuỗi giá trị nuôi biển (từ sản xuất con giống, thức ăn, nuôi trồng, thu hoạch, bảo quản, vận chuyển, chế biến, xuất nhập khẩu, phân phối, dịch vụ), cơ chế khuyến khích tích hợp đa ngành và hợp tác quốc tế để tranh thủ các công nghệ hiện đại, bảo đảm khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững.
Riêng Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì tiến hành xây dựng Quy hoạch không gian các vùng biển xa bờ và hải đảo căn cứ trên việc đánh giá sức tải môi trường các vùng biển; đồng thời thiết lập Hệ thống quốc gia Giám sát và Cảnh báo Môi trường biển…
Theo Tin Tức TTXVN
Ứng dụng công nghệ nuôi trồng hải sản bền vững: Bài 1-Xu hướng tất yếu
Việc ứng dụng công nghệ cao trong nuôi trồng hải sản có khả năng tạo đột phá về kinh tế làm giàu bền vững từ biển.
Biển và đại dương chiếm 70% diện tích địa cầu, nhưng mới chỉ đóng góp khoảng 1,7% khối lượng thực phẩm của thế giới, trong đó sản phẩm nuôi biển (nuôi trồng hải sản) chỉ mới chiếm chưa đầy 0,5%.
Trong khi nguồn lợi sinh vật của đại dương đang bị khai thác quá mức, mất khả năng tự tái tạo, ảnh hưởng rất xấu đến tính cân bằng của hệ sinh thái biển và đại dương.
Vì thế, nhân loại cần canh tác biển và đại dương để phát triển "cánh đồng" cuối cùng của hành tinh trong thế kỷ 21.
Thông tấn xã Việt Nam xin giới thiệu chùm 3 bài viết đăng phát từ 7-9/9 về chủ đề Ứng dụng công nghệ nuôi trồng hải sản bền vững.
Nông dân Trà Vinh mở rộng mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng siêu thâm canh.
Bài 1: Xu hướng phát triển tất yếu
Các nhà kinh tế học và hải dương học đều có chung nhân định nuôi biển xa bờ là xu hướng phát triển tất yếu trên thế giới (trong đó có Việt Nam) vì có khả năng tạo ra đột phá về kinh tế làm giàu bền vững từ biển, nếu ứng dụng công nghệ cao trong nuôi biển.
* Cung-cầu hải sản ngày càng gay gắt
Theo nhận định của FAO (Tổ chức Lương thực thế giới), do dân số thế giới ngày càng tăng nhanh, nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm hải sản đang tăng cao và rất đa dạng, khiến cho mâu thuẫn cung-cầu về hải sản trên thị trường thế giới ngày càng trở nên gay gắt.
Dự báo đến năm 2030 thế giới cần thêm 19 triệu tấn hải sản so với 2015 mới bảo đảm nhu cầu dinh dưỡng; năm 2050 thị trường thế giới cần sản lượng đạm động vật gấp 1,7 lần hiện nay, trong đó nguồn cung cấp chính là nuôi trồng hải sản từ đại dương.
Trong giai đoạn 2004 - 2008, mới có 93/165 quốc gia và vùng lãnh thổ có biển tiến hành hoạt động nuôi biển, với sản lượng trung bình hàng năm là 29.976.736 tấn.
Tuy vậy, gần như toàn bộ hoạt động nuôi biển hiện đang diễn ra ở những khu vực tương đối hẹp, kín sóng gió ở gần bờ, nơi diễn ra rất nhiều hoạt động kinh tế, công nghiệp, thương mại, quốc phòng, an ninh (như hàng hải, du lịch, khai thác dầu khí và khoáng sản, các khu bảo tồn biển...).
Những hoạt động này mang tính mâu thuẫn, cạnh tranh, xung đột với nuôi biển, làm giảm đi đáng kể diện tích ven bờ dành cho nuôi biển.
* Tiềm năng rất lớn
Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam (VSA) cho rằng, so với nuôi động vật trên cạn, nuôi biển được đánh giá cao hơn về hiệu quả kinh tế-môi trường, do có năng suất cao hơn, hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) thấp hơn (FCR của cá biển sử dụng thức ăn viên chỉ từ 1-2,5, trong khi động vật trên cạn 4-8), lại ít gây tác hại tới môi trường. Ngoài cá, có thể phát triển nuôi với sản lượng rất lớn những loài thủy sản ăn lọc, tận dụng thức ăn tự nhiên, như các động vật thân mềm (hàu, vẹm, nghêu, sò, trai, ốc,...).
Riêng trồng rong biển có thể đạt 400 kg protein/ha/năm (so với trồng cây trên đất chỉ thu 16kg/ha/năm) mà không hề tốn phân, thuốc bảo vệ thực vật và nước tưới, lại có tác dụng rất lớn làm giảm CO2 và hấp thu các tác nhân gây ô nhiễm khác trong khí quyển và đại dương.
Tiềm năng nuôi biển xa bờ là diện tích bề mặt biển nằm trong vùng EEZ (tức ở khoảng cách từ 3 đến 200 hải lý tính từ bờ), đáp ứng được các ngưỡng giới hạn về độ sâu, tốc độ dòng chảy và chi phí hiệu quả thích hợp với các phương pháp nuôi.
Với các công nghệ nuôi biển hiện nay, khu vực đáp ứng được đầy đủ các tiêu chí nói trên thường chỉ chiếm 0,1% tổng diện tích EEZ.
Kết quả đánh giá tiềm năng nuôi biển toàn cầu và nhiều quốc gia cho thấy, tiềm năng nuôi biển xa bờ là rất lớn, ngay cả với trình độ công nghệ hiện tại.
Đặc biệt, với 2 đa dạng sinh học, tiềm năng nuôi biển xa bờ đối với các loài hải sản vùng nước cận nhiệt đới và nhiệt đới lớn hơn hẳn vùng nước ôn đới.
Ngay cả với diện tích rất nhỏ cũng có thể đóng góp bền vững vào việc tăng sản lượng thực phẩm cho nhân loại. Năng suất nuôi cá biển như cá chim, cá vược, cá hồng Mỹ, cá giò ở vùng nhiệt đới hiện tại khoảng 9.900-12.000 tấn/km2./.
( Bài 2-Lợi thế biển Việt Nam và những thách thức)
Theo Bnews
360Live giới thiệu công nghệ live stream trên nền tảng điện toán đám mây 360Live được biết đến là một platform livestream giải trí hàng đầu tại Việt Nam, tập trung livestream tương tác, đòi hỏi chất lượng video cao, độ trễ thấp đã chính thức bước chân vào thị trường B2B - cung cấp giải pháp livestream cho doanh nghiệp. Việc phát triển và vận hành ứng dụng livestream vẫn đang là thách thức lớn với...