Tự chủ đại học: Hiểu rõ để bắt nhịp
Cùng với quá trình hội nhập sâu rộng, tự chủ ĐH cũng trở thành xu thế tất yếu tại Việt Nam.
Tự chủ đại học đang bước vào giai đoạn khởi đầu quan trọng.
Tuy nhiên, vì ở giai đoạn khởi đầu nên việc hiểu rõ, nhận thức đúng là nội dung quan trọng được đặt ra để triển khai thành công tự chủ ĐH.
Xu thế tất yếu
TS Nguyễn Văn Cường, ĐH Potsdam (CHLB Đức) cho biết: Ngày nay, tự chủ được coi là nguyên tắc nền tảng để phát triển giáo dục ĐH, được thừa nhận và thực hiện rộng rãi trong phạm vi quốc tế. Đặc biệt từ sau năm 2000, với cạnh tranh quốc tế về giáo dục ĐH, vấn đề này càng được quan tâm, đặc biệt là các nước phát triển, nhằm tăng cường điều kiện, năng lực cho các trường ĐH trong hội nhập, cạnh tranh giáo dục trong phạm vi toàn cầu.
Ở Đức, quyền tự chủ ĐH được quy định trong hiến pháp liên bang, hiến pháp của các bang. Quyền tự chủ ĐH và cơ chế quản lý Nhà nước với giáo dục ĐH được quy định cụ thể hơn trong Luật Giáo dục ĐH và các văn bản pháp lý liên quan khác.
“Việt Nam đang trên đường hội nhập quốc tế. Tự chủ giáo dục ĐH ở Việt Nam cũng là yếu tố tất yếu cần thực hiện nhằm thúc đẩy phát triển chất lượng giáo dục, giúp giáo dục ĐH Việt Nam hội nhập và góp phần giúp đất nước hội nhập, phát triển bền vững” – TS Nguyễn Văn Cường cho hay.
Tự chủ ĐH ở Việt Nam đang ở giai đoạn khởi đầu nhưng nhận được sự quan tâm từ chính phủ cũng như bản thân các trường ĐH; đồng thời đã có những thành tích đáng khích lệ, như thành lập hội đồng trường, kiểm định chất lượng các trường ĐH. Một số trường ĐH của Việt Nam đã có mặt trong bảng xếp hạng các tường ĐH quốc tế.
Nhấn mạnh đây là hướng đi đúng đắn trong xu hướng hội nhập quốc tế về giáo dục ĐH, TS Nguyễn Văn Cường đồng thời lưu ý: Tự chủ ĐH là tính độc lập và quyền tự do học thuật (tự do nghiên cứu và tự do giảng dạy) của các trường ĐH được bảo đảm về luật định, để việc nghiên cứu thành công hơn và giảng dạy tốt hơn.
Quyền tự chủ ĐH được chia nhỏ thành tự chủ về tài chính, pháp lý, tổ chức và nhân sự. Những quyền tự chủ này nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho tự do nghiên cứu và giảng dạy của trường ĐH.
Video đang HOT
“Để việc thực hiện tự chủ ĐH tiếp tục phát triển đúng hướng, tránh những chậm trễ hay chệch hướng không đáng có, nên rà soát và hoàn thiện các cơ sở pháp lý liên quan, bao gồm Luật Giáo dục ĐH cũng như các văn bản, vấn đề liên quan khác, như quy chế hội đồng trường, vấn đề bộ chủ quản.
Trong đó, cần tham khảo kinh nghiệm quốc tế để xây dựng những giải pháp riêng phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Thực hiện tự chủ ĐH là một quá trình phát triển. Cần có những bước triển khai quyết liệt, rút kinh nghiệm để tiếp tục hoàn thiện và phát triển về văn bản pháp lý cũng như các biện pháp triển khai trong thực tiễn” – TS Nguyễn Văn Cường nêu quan điểm.
Sự cạnh tranh trong nâng cao chất lượng đào tạo sẽ tăng cao khi tự chủ được triển khai đồng bộ.
Nhận thức đúng để đi đúng hướng
PGS.TS Vũ Thị Lan Anh, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Luật Hà Nội cho biết: Tự chủ ĐH, tuy được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng nhìn chung là sự chủ động, tự xác định mục tiêu và lựa chọn cách thức thực hiện các mục tiêu, tự quyết định và có trách nhiệm với các quyết định đó trong các hoạt động của cơ sở giáo dục ĐH trên cơ sở quy định của pháp luật.
Tự chủ ĐH có nghĩa là các cơ sở giáo dục ĐH được nắm trong tay vận mệnh của chính mình, có động lực để đổi mới nhằm đạt hiệu quả hoạt động cao hơn, tăng tính cạnh tranh giữa các cơ sở giáo dục ĐH. Do vậy, quản trị ĐH theo hướng trao quyền tự chủ cho các trường ĐH được coi là trọng tâm của sáng kiến cải cách giáo dục ĐH trên khắp thế giới. Mức độ tự chủ chịu ảnh hưởng của thể chế chính trị, hình thái lịch sử, kinh tế, xã hội khác nhau nên vấn đề tự chủ sẽ khác nhau ở các quốc gia.
Tại Việt Nam, Luật Giáo dục ĐH (sửa đổi) đã giải thích rõ khái niệm quyền tự chủ. Theo đó: “Quyền tự chủ là quyền của cơ sở giáo dục ĐH được tự xác định mục tiêu và lựa chọn cách thức thực hiện mục tiêu; tự quyết định và có trách nhiệm giải trình về hoạt động chuyên môn, học thuật, tổ chức, nhân sự, tài chính, tài sản và hoạt động khác trên cơ sở quy định của pháp luật và năng lực của cơ sở giáo dục ĐH”.
Như vậy, tự chủ ĐH được thực hiện trên cơ sở các quy định pháp luật và phụ thuộc vào năng lực của các cơ sở giáo dục ĐH chứ không phải mọi cơ sở giáo dục ĐH đều được tự chủ một cách đồng đều.
“Quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục ĐH gắn liền với trách nhiệm giải trình, tức là quyền luôn đi liền với trách nhiệm. Quyền và trách nhiệm này một lần nữa được khẳng định tại Khoản 1 Điều 32 Luật Giáo dục ĐH (sửa đổi): “Cơ sở GDĐH thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình theo quy định của pháp luật”.
Đặc biệt Luật quy định: “Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tôn trọng và bảo đảm quyền tự chủ của cơ sở giáo dục ĐH. Đây là quy định hết sức quan trọng, khẳng định “tính ưu tiên” của quyền tự chủ của cơ sở giáo dục ĐH, có thể vận dụng khi có những mâu thuẫn, chồng chéo trong quy định liên quan đến quyền tự chủ của cơ sở giáo dục ĐH” – bà Vũ Thị Lan Anh nhấn mạnh.
Tự chủ ĐH không có nghĩa là không có quản lý Nhà nước, mà là quản lý theo luật định nhằm tạo điều kiện phát triển tốt nhất cho nhà trường trên cở sở tăng cường sự độc lập, tính tự quyết định. Tự chủ về tài chính không có nghĩa là các trường phải tự lo về tài chính. Nhà nước vẫn có trách nhiệm đầu tư tài chính cho các trường công nhưng tăng cường quyền tự quyết của trường về tài chính trên cơ sở những quy định khung. – TS Nguyễn Văn Cường
Tự chủ Đại học: Nỗi lo học phí tăng
Một trong những nội dung khiến người học lo lắng nhất khi các trường đại học (ĐH) được tự chủ là tăng học phí.
Dự thảo Nghị định thu chi đối với các cơ sở giáo dục vừa được đưa ra lấy ý kiến cho thấy rất rõ lộ trình tăng học phí đối với các trường ĐH nói chung và các trường được tự chủ nói riêng.
Tự chủ đại học kèm theo nỗi lo học phí tăng đối với sinh viên Ảnh: Diệp An
Hơn 80% nguồn thu từ học phí
Tại hội thảo "Tự chủ ĐH - Từ chính sách đến thực tiễn" vừa được tổ chức, PGS.TS Vũ Thị Lan Anh, Phó hiệu trưởng Trường ĐH Luật Hà Nội, cho rằng, tác động tiêu cực rõ nét nhất của tự chủ ĐH là dễ dẫn đến tình trạng các cơ sở giáo dục ĐH chỉ chú trọng vấn đề tự chủ tài chính.
Từ đó, bằng mọi giá tăng nguồn thu qua học phí khi Nhà nước thay đổi cách thức sử dụng ngân sách và các nguồn lực đầu tư cho các cơ sở giáo dục ĐH, không bao cấp dàn trải như trước. Điều này có khả năng dẫn đến việc các trường bỏ qua trách nhiệm xã hội, đồng thời, có thể khiến người nghèo mất đi cơ hội sử dụng dịch vụ giáo dục ĐH.
GS.TS Phan Thanh Bình, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng (UBVHGDTNTN&NĐ) của Quốc hội, nói rằng, vấn đề quan tâm nhất là cách tính học phí của các trường ĐH hiện nay. Theo ông Bình, để tính học phí, cần dựa vào chi phí đào tạo ra một sinh viên. Đây là cách thế giới đang làm, nhưng ở Việt Nam, không có cơ quan nào hướng dẫn các cơ sở giáo dục ĐH về cách tính.
Về định mức kinh tế - kỹ thuật (là quy định được Bộ GD&ĐT hướng dẫn các trường từ năm 2014), rất khó để áp dụng cho giáo dục vì đây là một lĩnh vực đặc thù. Báo cáo giám sát của UBVHGDTNTN&NĐ của Quốc hội cho thấy, về chính sách học phí, hầu hết các trường mới được tự chủ chưa xác định phương thức tính chi phí đào tạo; trong khi khung học phí của Nhà nước hướng dẫn chưa tính đúng, tính đủ mức chi phí thực tiễn cần thiết để bảo đảm chất lượng đào tạo.
Các hướng dẫn, cũng như căn cứ để xây dựng khung học phí, bao gồm định mức kinh tế - kỹ thuật phù hợp với từng nhóm ngành, chuyên ngành đào tạo còn chưa được tính toán một cách đầy đủ, khoa học, phù hợp thực tiễn.
Ông Hoàng Đức Long, ĐH Tài chính - Marketing, cho rằng, việc đa dạng hóa nguồn thu của các trường còn hạn chế vì chủ yếu thu từ học phí, lệ phí và thường phụ thuộc kết quả tuyển sinh hằng năm. Do đó, học phí có tăng đạt mức trần quy định của Nghị định 86 (18,5 triệu đồng đối với chương trình đại trà) cũng chỉ đủ bù khoản chỉ tiêu tuyển sinh không đạt hoặc giảm so với năm trước.
Riêng khoản thu từ hoạt động dịch vụ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu và lại chia sẻ cho người học (phải lập các quỹ hỗ trợ sinh viên), vì vậy, tổng thu được sử dụng cho hoạt động chuyên môn của trường bị thu hẹp. Khi phải tự chủ cả chi đầu tư, kinh phí hoạt động còn lại sẽ eo hẹp hơn.
GS.TS Nguyễn Trọng Hoài và TS. Trần Bá Linh, ĐH Kinh tế TPHCM, mới đây thực hiện một báo cáo gửi UBVHGDTNTN&NĐ về chuyên đề học phí. Theo nhóm nghiên cứu, trong vấn đề tự chủ tài chính đối với các trường ĐH tại Việt Nam hiện nay, học phí là một nội dung quan trọng, chiếm hơn 80% nguồn thu của hệ thống.
Tính thế nào cho đủ?
Trong nghiên cứu, hai tác giả đặt ra 3 nguyên tắc để xây dựng học phí cho các trường ĐH khi thực hiện tự chủ là chất lượng đào tạo, tính cạnh tranh và sự công bằng xã hội. Hiện nay, cách tính, thu học phí còn nhiều bất cập, chủ yếu do thiếu sót hoặc thiếu nhất quán về một triết lý cho mục đích thu. "Việc thu học phí hiện chủ yếu hướng đến tồn tại (dựa vào tính đúng, tính đủ định mức kinh tế - kỹ thuật), chứ chưa có yếu tố phát triển", GS. Hoài nhận định.
Theo ông, cần có triết lý về mục đích thu học phí để tránh tình trạng các cơ sở giáo dục chạy theo đồng tiền, tận thu của sinh viên và dồn ngân sách vào tuyển sinh để có thể thu học phí nhiều hơn. Triết lý về mục đích cũng giúp từng trường định hướng việc sử dụng học phí, tránh đầu tư dàn trải và sự tùy tiện trong quyết định dẫn đến rủi ro về cân đối thu chi hoặc ảnh hưởng tiêu cực cho người học.
Nhóm nghiên cứu đánh giá chất lượng đào tạo để có cơ sở quan trọng xác định mức học phí gồm đánh giá quá trình (thông qua kiểm định) và kết quả. Việt Nam đã triển khai kiểm định từ nhiều năm nay, nhưng lại đang khuyết việc đánh giá kết quả.
Nhóm của GS. Hoài cho rằng, về nguyên tắc cạnh tranh, vấn đề không đơn giản là giảm học phí mà phải nằm ở tương quan chất lượng đào tạo với học phí, để người học nhận được giá trị nhiều nhất cho số tiền họ chi ra. Tính cạnh tranh giúp nhà trường năng động, chú ý đến nhu cầu của thị trường hơn, tránh tình trạng đào tạo trong tháp ngà. Điều này cũng giúp các trường không đầu tư dàn trải mà tập trung vào thế mạnh của mình.
Tuy nhiên, cạnh tranh chắc chắn sẽ có mặt tối. Các hình thức cạnh tranh không lành mạnh, như quảng cáo dối, dùng tài nguyên vào các giá trị không thực chất, dùng truyền thông tấn công đối thủ... đều gây hậu quả lớn cho xã hội và làm mất uy tín Nhà nước. Vì vậy, Nhà nước cần có chính sách, cơ chế giám sát cạnh tranh.
Một nhược điểm khác của cạnh tranh là sẽ có những ngành chi phí đào tạo quá cao, khiến học phí quá khả năng thị trường (ví dụ ngành y), hoặc chỉ có số ít người học sẵn sàng chi trả (các ngành khoa học tự nhiên, khoa học cơ bản). Đây lại là những ngành không thể thiếu cho sự phát triển đất nước, nếu cứ để các trường tuân theo quy luật cạnh tranh thì có thể dẫn tới một nền giáo dục ĐH khiếm khuyết.
GS.TS Nguyễn Trọng Hoài và TS. Trần Bá Linh nhận định, Việt Nam chưa có quy trình đánh giá và thông tin chất lượng đào tạo, đặc biệt là đánh giá kết quả cho thị trường. Cộng với việc mới áp dụng tự chủ học phí, việc tùy tiện đưa ra mức học phí là khó tránh khỏi. Các cơ quan quản lý nên theo dõi sát sao và yêu cầu giải trình nếu có dấu hiệu tiêu cực, và xử lý nếu cần thiết.
Tự chủ đại học: Đặt hết gánh nặng tài chính lên 'vai' người học? Có ý kiến cho rằng, nhà nước chỉ nên quy định mức học phí tối thiểu, chưa nên quy định mức tối đa, cho phép các trường tự tính chi phí theo chuẩn đầu ra ngang bằng các đại học tiên tiến thế giới, nhằm thu hút 'du học nội địa'. Tại diễn đàn "Tự chủ đại học - Từ chính sách đến...