Trường tư thục lao đao (*): Nhiều hệ lụy nếu không thể vực dậy
Trường tư phải đóng cửa, nhà đầu tư rút khỏi lĩnh vực giáo dục, khi học sinh quay trở lại sẽ không đủ lớp học, tăng áp lực lên hệ thống trường công, ảnh hưởng đến hệ thống giáo dục và để lại nhiều hệ lụy lâu dài
Theo số liệu của Sở Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) TP HCM, năm học 2020-2021, thành phố có 1.020 trường ngoài công lập, với hơn 276.000 học sinh (HS). Trong đó, khối mầm non có 902 trường với hơn 179.000 trẻ. Nhóm trẻ, lớp mẫu giáo, mầm non độc lập tư thục là 1.756 nhóm lớp với hơn 70.000 trẻ. Khối THPT có 89 trường ngoài công lập với hơn 47.000 HS.
Không đáp ứng đủ chỗ học
Bà Lương Thị Hồng Điệp, Trưởng Phòng Giáo dục Mầm non – Sở GD-ĐT TP HCM, cho biết riêng khối mầm non, hệ thống các trường ngoài công lập, nhóm trẻ… tại thành phố đóng góp 60% chỗ học, trong khi hệ thống trường công là 40%. Theo lãnh đạo một phòng GD-ĐT tại TP HCM, hằng năm, nếu không có các trường phổ thông ngoài công lập san sẻ, số HS sau lớp 9 không biết sẽ đi đâu, về đâu khi trường công chỉ đáp ứng khoảng 80% số chỗ học lớp 10.
Điều dễ nhận thấy nhất khi các trường tư lao đao, thậm chí phải giải thể, dừng hoạt động do ảnh hưởng dịch bệnh là số chỗ học sẽ giảm. Quận Bình Tân là một trong những địa phương gặp nhiều áp lực về sĩ số do số HS tăng dần đều qua các năm. Để có thể đáp ứng đủ chỗ học cho trẻ trong độ tuổi đến trường, quận phải nhờ hoạt động từ các trường tư. Thế nhưng, theo ông Ngô Văn Tuyên, Trưởng Phòng GD-ĐT quận, do ảnh hưởng dịch Covid-19, Bình Tân có 2 trường mầm non và 11 nhóm lớp đã giải thể.
Chị Huỳnh Thu Thủy, chủ 2 trường mầm non tại quận Phú Nhuận, cho biết tổng số HS của 2 trường là gần 200 em nhưng chỉ có 50 phụ huynh có ý định cho con đến trường. Suốt hơn 7 tháng qua, chị đã vay mượn khắp nơi để giữ trường. Hiện nay, chị sợ không thể tiếp tục gắng gượng đến tháng 2 để mở lại.
Theo chị Thủy, rất nhiều trường mầm non tư thục mà chị biết cũng đã giải thể. Nếu trường tư đóng cửa nhiều, có thể các em sẽ thiếu chỗ học. Bởi lẽ, số trẻ mầm non ngày một tăng, trường công lập không thể nhận hết các em được vì số trẻ trong một lớp sẽ rất cao, cơ sở vật chất không đủ đáp ứng.
Thiếu hụt lớn nguồn giáo viên
Theo Sở GD-ĐT TP HCM, tính đến ngày 11-9-2021, do ảnh hưởng dịch Covid-19, nhiều trường học đã dừng hoạt động, giải thể. Tổng số cán bộ, giáo viên (GV), nhân viên, người lao động trong ngành giáo dục bị mất việc làm là 12.341 người, tập trung nhiều nhất ở bậc học mầm non với hơn 10.129 người, chiếm trên 82%.
Trước nguy cơ thiếu GV khi trường mầm non được mở cửa, theo ông Trần Trọng Khiêm, Phó Phòng GD-ĐT quận Tân Phú, giải pháp các trường đưa ra khi hoạt động trở lại là sẽ căn cứ số trẻ tự nguyện đến trường để cân đối GV. “Nếu chỉ có khoảng 100 trẻ đến trường thì sẽ cân đối số GV là bao nhiêu cho hợp lý” – ông Khiêm giải thích.
Học sinh một trường mầm non tư thục tại TP HCM trước khi dịch bệnh xảy ra; trường này đang gặp rất nhiều khó khăn. (Ảnh: ĐẶNG TRINH)
Bà Lương Thị Hồng Điệp cho biết UBND TP HCM đã có quyết định các trường mầm non sẽ mở cửa từ tháng 2-2022 theo tinh thần tự nguyện của phụ huynh và các trường đang chuẩn bị tinh thần để hoạt động trở lại. Phòng GD-ĐT các quận, huyện và TP Thủ Đức đang tổng hợp số liệu cả về đội ngũ GV và HS để có phương án cụ thể. Theo bà Điệp, sẽ có tình trạng thiếu GV nhưng hiện nay, số trẻ về quê hoặc ở nhà chưa đến trường cũng nhiều. Các trường sẽ sắp xếp và thiếu hụt thế nào sẽ cân đối trong 2 tuần học đầu tiên.
Cũng theo bà Điệp, trước đây, đại diện các trường mầm non đã cùng ký đơn gửi Thủ tướng Chính phủ xin tháo gỡ khó khăn cho các trường, Vụ Giáo dục mầm non – Bộ GD-ĐT cũng đang xây dựng lộ trình hỗ trợ các trường ngoài công lập.
“Từ phía địa phương, sở sẽ cập nhật tình trạng thiếu GV tại các cơ sở giáo dục mầm non, đặc biệt là các cơ sở ngoài công lập của TP Thủ Đức và các quận, huyện đầy đủ để có giải pháp cụ thể cho từng đơn vị” – bà Điệp nhấn mạnh.
Cần sự hỗ trợ mạnh mẽ
Nhiều chủ trường tư thục các cấp ở TP HCM nhận định rằng trong giai đoạn giãn cách xã hội, các trường học giải thể, sang chủ không phải là ít. Trường tư thục đóng vai trò quan trọng trong hệ thống giáo dục của một quốc gia, góp phần giảm tải cho trường công. Trường tư thục còn giải quyết bài toán xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục, tạo công việc và thu nhập cho nhiều GV, người lao động, góp phần thúc đẩy kinh tế. Nếu trường tư ồ ạt đóng cửa thì gánh nặng sẽ đổ về hướng trường công và xã hội.
Ông Huỳnh Công Thái, chủ sở hữu Trường THPT Đông Đô (quận Bình Thạnh), cho biết khi thiếu GV, HS sẽ là đối tượng bị ảnh hưởng nhất vì các em sẽ không có điều kiện học tập tốt. Trường THPT Đông Đô đang thiếu khoảng 20%-30% GV, chủ yếu ở khối lớp 9 và 12, rơi vào 2 môn quan trọng là toán và văn. Trong đó, môn toán lớp 12 một tuần bình quân có 8 tiết, giờ thiếu đến 6 lớp là 48 tiết, cần ít nhất 4 GV. Ông Thái đã cố gắng huy động học trò cũ là GV đến giúp nhưng về lâu dài, ông hy vọng sẽ có sự hỗ trợ từ lãnh đạo các cấp để GV ở các tỉnh sớm quay lại TP HCM làm việc.
“Bên cạnh đó, nhiều gia đình hạn hẹp nguồn tài chính do dịch bệnh, HS sẽ dịch chuyển sang học ở các trường giáo dục thường xuyên, trường nghề…, như vậy sẽ đỡ tốn kém cho phụ huynh. Nhưng việc dịch chuyển ồ ạt có thể khiến các trường công quá tải, còn trường tư thì không có người học” – ông Thái băn khoăn.
Bà Sanna Manner, Hiệu trưởng Trường Quốc tế Việt Nam – Phần Lan (VFIS), cho rằng trường học không chỉ để học mà còn là nơi HS được trau dồi những kỹ năng quan trọng cho cuộc sống. Các em học cách hợp tác, hiểu và lắng nghe những người khác. Các em cũng có cơ hội để tìm ra điểm mạnh của bản thân và phát triển thành những công dân tốt. Trường tư thục đóng cửa có thể khiến HS mất đi cơ hội học tập hoặc một số gia đình không đủ kinh phí khiến trẻ sẽ phải nghỉ học hay chuyển trường, sẽ khó có thể bắt kịp nhịp học.
Các trường tư cũng gặp khó khăn trong việc giúp HS giải quyết vấn đề nêu trên vì thiếu tiền. “Vì vậy, Chính phủ nên hiểu rằng trẻ em hơn bao giờ hết đang rất cần nhận được sự quan tâm của toàn xã hội. Không chỉ những đứa trẻ, các GV cũng cần sự hỗ trợ mạnh mẽ từ chính quyền về vật chất lẫn tinh thần. Từ đó, lực lượng GV mới có nguồn lực và thời gian tập trung vào công việc, mang lại hiệu quả trong giáo dục” – bà Sanna Manner nêu ý kiến.
Gặp nhiều trở ngại trong hoạt động
“Gánh vác” một phần không nhỏ trong việc san sẻ áp lực cho trường công nhưng theo tâm tư của các trường tư thục, chưa tính đến khó khăn do dịch bệnh, hiện khối trường ngoài công lập gặp nhiều trở ngại trong cả việc cấp phép thành lập lẫn hoạt động.
Theo Sở GD-ĐT TP HCM, thành phố hiện gặp khó khăn về mặt pháp lý trong việc điều chỉnh quy hoạch đất dùng cho giáo dục nên công tác cấp phép thành lập và hoạt động của các cơ sở giáo dục ngoài công lập cũng đang gặp nhiều khó khăn. Trong năm 2020, Thường trực UBND thành phố đã nhiều lần họp bàn nhưng các sở, ngành liên quan chưa tìm được hướng tháo gỡ. Cụ thể, tỉ lệ trường ngoài công lập tăng năm 2017 là 11,74%, năm 2018 là 10,4%, năm 2019 là 6,22%, đến năm 2020 chỉ còn 3,03%, năm 2021 là 1,77%. Trong 2 năm, số trường phổ thông ngoài công lập không tăng, chỉ tăng thêm một số cơ sở giáo dục mầm non.
“Điều này dẫn đến tình trạng tỉ lệ phòng học/vạn dân trong độ tuổi đi học giảm. Riêng trong năm học 2020-2021, 151 cơ sở giáo dục mầm non – gồm 27 trường, 124 nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập, lớp mầm non độc lập – đã giải thể và ngưng hoạt động, dẫn đến giảm 411 phòng học” – một cán bộ Sở GD-ĐT TP HCM cho hay.
Video đang HOT
(*) Xem Báo Người Lao Động từ số ra ngày 10-1
Học phí Y Dược năm 2021 từ 14,3 đến 220 triệu đồng/năm
Học phí các trường đào tạo ngành y dược ở trường công cao nhất là 88 triệu đồng/năm, ở trường tư cao nhất là 220 triệu đồng/năm.
Mức học phí thấp nhất là 14,3 triệu đồng/năm.
Trường ĐH Y Hà Nội
Các ngành đào tạo gồm: Y khoa, Răng-Hàm-Mặt, Y học cổ truyền, Y học dự phòng, Điều dưỡng, Dinh dưỡng, Kỹ thuật xét nghiệm Y học, Khúc xạ nhãn khoa, Y tế công cộng.
Theo công bố của Trường ĐH Y Hà Nội học phí năm 2021-2022 vẫn theo Nghị định 86 của Chính phủ năm 2015 (14,3 triệu đồng/năm) và Nghị định thay thế Nghị định 86 của Chính phủ. Khi thực hiện tự chủ Trường ĐH Y Hà Nội sẽ thay đổi mức học phí.
Trường ĐH Dược Hà Nội
Đào tạo ngành Dược học và Hóa dược. Năm 2021 nhà trường vẫn tạm thu 14,3 triệu đồng/năm cho đến khi có Nghị định thay thế Nghị định 86 của Chính phủ.
Trường ĐH Y Dược (Đại học Quốc gia Hà Nội)
Trường ĐH Y Dược (ĐH Quốc gia Hà Nội) thành lập năm 2020 trên cơ sở nâng cấp khoa Y Dược của trường này. Trường đào tạo các ngành: Y Đa khoa, Dược học, Răng - Hàm - Mặt, Kỹ thuật hình ảnh Y học, Kỹ thuật xét nghiệm Y học, Điều dưỡng.
Học phí năm 2021 đối với các ngành chương trình chuẩn: Y khoa, Dược học, Kỹ thuật xét nghiệm Y học và Kỹ thuật Hình ảnh Y học là 14,3 triệu đồng/năm.
Học phí chương trình chất lượng cao ngành Răng-Hàm-Mặt là 60 triệu đồng/năm.
Học viện Y Dược học cổ truyền Việt Nam
Đào tạo các ngành: Y khoa, Y học cổ truyền, Dược học. Học phí là 14,3 triệu đồng/năm.
Trường ĐH Y tế Công cộng
Đào tạo các ngành: Y tế công cộng, Kỹ thuật xét nghiệm y học, Dinh dưỡng học, Công tác xã hội, Kỹ thuật hồi phục chức năng, Công nghệ kỹ thuật môi trường.
Học phí ĐH Y tế Công cộng năm 2021-2022 là 14,3 triệu đồng/năm.
Trường ĐH Y Dược (Đại học Thái Nguyên)
Đào tạo các ngành: Y khoa, Dược học, Răng-Hàm-Mặt, Y học dự phòng, Điều dưỡng, Kỹ thuật xét nghiệm y học. Học phí ĐH Y Dược Thái Nguyên năm 2021 là 14,3 triệu đồng/năm.
Trường ĐH Y Dược Hải Phòng
Đào tạo các ngành: Y khoa, Răng-Hàm-Mặt, Y học dự phòng, Y học cổ truyền, Dược học, Điều dưỡng, Kỹ thuật xét nghiệm y học. Học phí ĐH Y Dược Hải Phòng năm 2021 là 14,3 triệu đồng/năm.
Trường ĐH Y Dược Thái Bình
Đào tạo các ngành: Y khoa, Y học dự phòng, Y tế công cộng, Dược học, Điều dưỡng. Học phí ĐH Y Dược Thái Bình ngành Y đa khoa, Y học cổ truyền, Dược học là 24,5 triệu đồng/năm học; các ngành còn lại là 18,5 triệu đồng/năm.
Trường ĐH Kỹ thuật Y tế Hải Dương
Đào tạo các ngành: Y khoa, Điều dưỡng, Kỹ thuật xét nghiệm y học, Kỹ thuật hình ảnh y học, Kỹ thuật phục hồi chức năng. Học phí ĐH Kỹ thuật Y tế Hải Dương năm 2021 là 14,3 triệu đồng/năm.
Trường ĐH Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội
Đào tạo các ngành: Y khoa, Răng-Hàm-Mặt, Dược học, Điều dưỡng. Học phí ngành Răng-Hàm-Mặt là 72 triệu đồng/năm; ngành Y khoa 60 triệu đồng/năm; Học phí Dược học, Điều dưỡng là 25 triệu đồng/năm.
Trường ĐH Y khoa Vinh
Đào tạo các ngành: Y khoa, Dược học, Y học dự phòng, Kỹ thuật xét nghiệm y học, Điều dưỡng, Y tế cộng đồng. Học phí năm 2021 là 14,3 triệu đồng/năm.
Trường ĐH Y Dược (Đại học Huế)
Đào tạo các ngành: Y khoa, Răng-Hàm-Mặt, Y học dự phòng, Y học cổ truyền, Dược học, Điều dưỡng, Hộ sinh, Kỹ thuật xét nghiệm y học, Kỹ thuật hình ảnh y học, Y tế công cộng. Học phí năm 2021 là 14,3 triệu đồng/năm.
Trường ĐH Kỹ thuật Y Dược Đà Nẵng
Đào tạo các ngành: Y khoa, Dược học, Điều dưỡng, Kỹ thuật xét nghiệm y học, Kỹ thuật hình ảnh y học, Kỹ thuật phục hồi chức năng. Học phí ĐH Kỹ thuật Y Dược Đà Nẵng năm 2021 là 14,3 triệu đồng/năm.
Khoa Y Dược (Đại học Đà Nẵng)
Đào tạo các ngành: Y khoa, Điều Dưỡng, Răng-Hàm-Mặt, Dược học. Học phí năm 2021 là 14,3 triệu đồng/năm.
Trường ĐH Duy Tân
Đào tạo các ngành: Y khoa, Răng-Hàm-Mặt, Dược học, Điều dưỡng. Học phí ngành Dược học là 33 triệu đồng/năm; Học phí ngành Y khoa, Răng-Hàm-Mặt là 64 triệu đồng/năm
Trường ĐH Phan Châu Trinh
Đào tạo các ngành: Y khoa, Răng-Hàm-Mặt, Điều dưỡng, Kỹ thuật xét nghiệm y học, Quản trị bệnh viện. Học phí ngành Y khoa 80 triệu đồng/năm; Học phí ngành Răng-Hàm-Mặt là 85 triệu đồng/năm;
Học phí ngành Điều dưỡng, Kỹ thuật xét nghiệm y học là 24 triệu đồng/năm;
Học phí ngành Quản trị bệnh viện là 26 triệu đồng/năm. Với sinh viên người nước ngoài học phí gấp 2 lần các mức trên.
Trường ĐH Tây Nguyên
Đào tạo các ngành: Y khoa, Kỹ thuật xét nghiệm y học, Điều dưỡng. Học phí năm 2021 là 14,3 triệu đồng/năm.
Trường ĐH Buôn Ma Thuột
Đào tạo các ngành: Y khoa, Dược học, Điều dưỡng, Y tế cộng đồng. Học phí ngành Y khoa 40 triệu đồng/năm; Học phí ngành Dược học 27,9 triệu đồng/năm; Học phí ngành Điều dưỡng, ngành Y tế cộng đồng 20 triệu đồng/năm.
Trường ĐH Y Dược TP.HCM
Đào tạo các ngành: Y khoa, Răng-Hàm-Mặt, Y học dự phòng, Y học cổ truyền, Dược học, Dinh dưỡng, Kỹ thuật phục hình răng, Kỹ thuật xét nghiệm y học, Kỹ thuật hình ảnh y học, Kỹ thuật phục hồi chức năng, Y tế cộng đồng.
Học phí ĐH Y Dược TP.HCM năm 2021 ngành Răng-Hàm-Mặt là 70 triệu đồng/năm; Ngành Y khoa là 68 triệu đồng/năm; Ngành Phục hình răng là 55 triệu/năm; Ngành Dược học 50 triệu đồng/năm; Ngành Y học cổ truyền, Y học dự phòng, Dinh dưỡng, Y tế Công cộng 38 triệu đồng/năm; Các ngành thuộc khoa Điều dưỡng, Kỹ thuật y học 40 triệu đồng/năm.
Trường ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Đào tạo các ngành: Y khoa, Răng-Hàm-Mặt, Dược học, Kỹ thuật xét nghiệm y học, Y học cổ truyền, Dinh dưỡng, Điều dưỡng, Y học dự phòng, Kỹ thuật hình ảnh y học, Kỹ thuật phục hồi chức năng, Y tế cộng đồng, Khúc xạ nhãn khoa. Năm 2021, trường thực hiện tự chủ.
Học phí ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch các ngành Điều dưỡng, Dinh dưỡng, Kỹ thuật Xét nghiệm y học, Kỹ thuật Hình ảnh y học, Khúc xạ Nhãn khoa, Y tế Công cộng là 28 triệu đồng/năm; Các ngành Y khoa, Dược học, Răng-Hàm-Mặt là 32 triệu đồng/năm.
Khoa Y (Đại học Quốc gia TP.HCM)
Đào tạo các ngành: Y khoa, Răng-Hàm-Mặt, Dược học. Học phí ngành Y khoa chất lượng cao là 60 triệu đồng/năm, ngành Dược học chất lượng cao 55 triệu đồng/năm và Răng - Hàm - Mặt chất lượng cao 88 triệu đồng/năm.
Trường ĐH Tôn Đức Thắng
Đào tạo ngành Dược học; Học phí: 46 triệu đồng/năm.
Trường ĐH Quốc tế Hồng Bàng
Đào tạo các ngành: Y khoa, Răng-Hàm-Mặt, Dược học, Kỹ thuật xét nghiệm y học, Kỹ thuật phục hồi chức năng. Học phí ngành Răng-Hàm-Mặt; Y khoa chương trình tiếng Việt là 182 triệu đồng/năm; Học phí ngành Răng-Hàm-Mặt; Y khoa chương trình tiếng Anh là 220 triệu đồng/năm; Học phí ngành Dược học 55 triệu đồng/năm; Các ngành khác 50 triệu đồng/năm.
Trường ĐH Văn Lang
Đào tạo các ngành Răng-Hàm-Mặt, Điều dưỡng, Dược học, Kỹ thuật xét nghiệm y học.
Học phí ngành Răng-Hàm-Mặt từ 1,2 triệu đồng đến 5,2 triệu đồng/tín chỉ; Toàn khoá có 223 tín chỉ, như vậy học phí cao nhất 1,159 tỷ đồng/khoá; Học phí ngành Dược học từ 1,2 triệu đồng đến 1,97 triệu đồng/tín chỉ; Toàn khoá có 172 tín chỉ, như vậy học phí cao nhất là 338,9 triệu đồng/khóa.
Trường ĐH Công nghệ TP.HCM
Đào tạo các ngành Dược học, Kỹ thuật xét nghiệm y học, Điều dưỡng. Học phí khoảng 45 triệu đồng/năm cho ngành Dược học (cao nhất).
Trường ĐH Nguyễn Tất Thành
Đào tạo các ngành Y khoa, Y học dự phòng, Điều dưỡng, Dược học, Kỹ thuật xét nghiệm y học.
Học phí ngành Y khoa 34 triệu đồng/ học kỳ. Một năm đóng 3 học kỳ, tức khoảng 102 triệu đồng/năm.
Trường ĐH Tân Tạo
Đào tạo các ngành: Y khoa, Kỹ thuật xét nghiệm y học, Điều dưỡng. Học phí ngành Y khoa 150 triệu đồng/năm; Học phí ngành Kỹ thuật xét nghiệm y học, Điều dưỡng bình quân 40 triệu đồng/năm.
Trường ĐH Y Dược Cần Thơ
Đào tạo các ngành: Y khoa, Răng-Hàm-Mặt, Y học cổ truyền, Y học dự phòng, Dược học, Điều dưỡng, Y tế cộng đồng, Xét nghiệm y học. Học phí ĐH Y Dược Cần Thơ cho chương trình đại trà: 24,6 triệu đồng/năm.
Trường ĐH Nam Cần Thơ
Đào tạo các ngành: Y khoa, Kỹ thuật xét nghiệm y học, Kỹ thuật hình ảnh y học, Quản trị bệnh viện. Học phí ngành cao nhất 1.200.000 đồng/tín chỉ.
Trường ĐH Võ Trường Toản
Đào tạo các ngành Y khoa, Dược học. Học phí ngành Y khoa là 61,5 triệu đồng/năm; Học phí ngành Dược học là 42,5 triệu đồng/năm.
Nhiều trường tư buồn lòng vì phải tự bỏ tiền để học bồi dưỡng Chương trình 2018 Thực hiện đổi mới chương trình giáo dục là nhiệm vụ quốc gia, ấy thế mà chương trình bồi dưỡng dành cho toàn bộ giáo viên cũng phân biệt trường công - trường tư. Theo thông tin của Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, ngày 13/4, Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội có công văn số 1196/SGDĐT-GDPT gửi Chủ...