Trường đại học trong đại học không phải mô hình đại học đa lĩnh vực – university
Giáo sư Lâm Quang Thiệp – nguyên Vụ trưởng Vụ giáo dục đại học ( Bộ Giáo dục và Đào tạo) cho rằng, việc các trường hướng tới đại học đa lĩnh vực là xu hướng tốt.
Hiện nay nhiều trường đại học đang dự kiến thời gian hướng tới trở thành “đại học”, đa ngành, đa lĩnh vực trong 3- 5 năm nữa khi thực hiện tự chủ toàn diện. Vấn đề này đặt ra câu hỏi là làm sao để có được các đại học đa lĩnh vực đích thực. Trao đổi với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư Lâm Quang Thiệp – nguyên Vụ trưởng Vụ giáo dục đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo) cho rằng, việc các trường hướng tới đại học đa lĩnh vực đó là xu hướng tốt.
Giáo sư Lâm Quang Thiệp nêu, theo kinh nghiệm của các hệ thống giáo dục đại học phương Tây, mô hình trường đại học có hiệu quả nhất chính là mô hình đại học đa lĩnh vực (university), vì 2 lý do cơ bản.
Một là , các đại học đa lĩnh vực sẽ đào tạo sinh viên tốt ở phần giáo dục đại cương, phần rất quan trọng của kiến thức đại học mà chỉ trong các university mới có đủ đội ngũ giáo sư, giảng viên có trình độ cao để giảng dạy tốt các chương trình giáo dục này.
Hai là , các đại học đa lĩnh vực có ưu thế về nghiên cứu và phục vụ xã hội, vì ngày nay các đề tài nghiên cứu lớn đều là các đề tài có tính liên ngành, các hoạt động phục vụ xã hội cũng vậy. Và đại học đa lĩnh vực bao gồm nhiều ngành đào tạo khác nhau dễ đối phó với sự biến động về nhu cầu của từng nghề nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Giáo sư Lâm Quang Thiệp – nguyên Vụ trưởng Vụ giáo dục đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo) (ảnh: Thùy Linh)
Từ những ưu thế của đại học đa lĩnh vực, Giáo sư Lâm Quang Thiệp cho rằng, mục tiêu để trở thành đại học đa lĩnh vực là xu hướng quốc tế tuy nhiên đó phải là đại học đa lĩnh vực đích thực chứ trong nhiều năm nay 5 đại học đa lĩnh vực của Việt Nam (bao gồm 2 đại học quốc gia và 3 đại học vùng) hoạt động không đúng là đại học đa lĩnh vực nên không phát huy được tác dụng.
Giáo sư Lâm Quang Thiệp phân tích, vì những ưu thế của mô hình đại học đa lĩnh vực nên khi chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường, nhiều nước đã chuyển các trường đang học đơn ngành hoặc đơn lĩnh vực sang đại học đa lĩnh vực ( Liên bang Nga, Trung Quốc, các nước Đông Âu).
Tại Việt Nam, vào đầu thập niên 1990, khi Chính phủ chủ trương xây dựng một số trường đại học mạnh cho nước ta, Thủ tướng Võ Văn Kiệt yêu cầu Bộ Giáo dục và Đào tạo thiết kế các đại học này.
Theo yêu cầu đó Bộ đã đề nghị xây dựng Đại học quốc gia Hà Nội và Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, ba đại học vùng là Đại học Thái Nguyên, Đại học Huế, Đại học Đà Nẵng theo mô hình đại học đa lĩnh vực
Video đang HOT
Tuy nhiên việc thực hiện đã diễn ra không đúng như thiết kế, lý do chủ yếu là các trường thành viên phản đối việc sáp nhập, vì mất nhiều “ghế” quản lý và “trường” bị hạ cấp thành khoa.
Các nhà tổ chức phải thỏa hiệp bằng cách giữ nguyên vị trí các trường thành viên, không thay đổi các chức vụ quản lý trước đây, do đó các quy chế tổ chức được xây dựng theo mô hình đại học hai cấp.
Theo mô hình này, hoạt động trong các trường thành viên hầu như vẫn giữ như cũ, sự kết nối giữa các trường thành viên với nhau rất lỏng lẻo, và cấp quản lý trên cùng của “đại học” thực hiện một cơ chế quản lý trung gian gián tiếp, giống như các “bộ đại học” nhỏ. Các đại học “hai cấp” ở nước ta không phát huy được các thế mạnh của mô hình “university” như đã nêu trên đây.
Trước hết, các trường thành viên đều là các trường đơn ngành, đơn lĩnh vực, lại liên kết với nhau rất lỏng lẻo, hầu như hoàn toàn độc lập về đào tạo, nên ưu thế về việc nâng cao chất lượng đào tạo theo chương trình giáo dục khai phóng không thể hiện được.
Cũng vậy, trong lĩnh vực nghiên cứu, phục vụ xã hội và đáp ứng thị trường lao động, quan hệ lỏng lẻo giữa các trường thành viên rất khó tạo nên sự phối hợp để tăng hiệu quả.
Chính vì sự kém hiệu quả của các mô hình đại học quốc gia và đại học vùng nên Ngân hàng Thế giới đã có một văn bản góp ý chính thức khi xây dựng Luật Giáo dục đại học 2018 đề nghị điều chỉnh các mô hình đó.
Bởi họ nói rằng đó là mô hình duy nhất độc đáo tại Việt Nam (“is unique to Vietnam”) và không thấy ở bất kỳ nước nào trên thế giới (“We have not come across this set up in any country in the world”).
Nói theo ngôn ngữ thông thường, đó là một mô hình “không giống ai” trên thế giới, và có nhiều nhược điểm. Theo họ, các nhược điểm đó là: “Không tận dụng được hết ưu thế về tài năng, kiến thức, và tiềm lực hiện có bị phân tán trong một số lớn các cơ sở tách biệt.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng các cơ sở đại học phi tập trung hoạt động kiểu như các trường thành viên độc lập gắn kết yếu gặp thách thức lớn nhằm chuyển đổi và tăng cường hoạt động bởi vì mỗi trường thành viên đều có kế hoạch và ưu tiên của riêng mình, không nhất thiết gắn chặt với mục tiêu chung của đại học lớn.
Sự thiếu tích hợp làm cho chúng không thể tạo nên một sự đồng nhất cốt lõi và một tình cảm chung về mục đích. Khi không có một tầm nhìn chung, nhiệm vụ thiết kế và thực hiện một dự án phát triển đổi mới cho toàn bộ trường đại học trở thành bất lực. Các cơ sở đại học phi tập trung có xu hướng trở thành không hiệu quả vì sự trùng lặp của việc cung cấp các khóa học và các cấu trúc hành chính.
Các hoạt động trong giảng dạy và nghiên cứu vẫn được giữ trong nội bộ các trường và khoa riêng biệt. Những nỗ lực đa ngành bị cản trở. Các nguồn lực tài chính và khoa học không được chia sẻ rộng rãi.”
“Các nhận xét đó thể hiện khá đầy đủ nhược điểm của mô hình đại học hai cấp mà chúng tôi đã nhiều lần phát biểu”, Giáo sư Lâm Quang Thiệp nhấn mạnh.
Từ những phân tích nêu trên, Giáo sư Lâm Quang Thiệp khẳng định: “Rõ ràng việc hai đại học lớn nhất ở nước ta không được xây dựng theo mô hình “university” thật sự là một cản trở lớn để chúng phấn đấu trở thành đại học đẳng cấp thế giới.
Và muốn giảm bớt những cản trở trên con đường phấn đấu để có các trường đại học đẳng cấp thế giới, chúng ta cần thay đổi hệ thống giáo dục đại học và nghiên cứu và điều chỉnh các mô hình đại học để có các đại học đa lĩnh vực thật sự”.
'Lên đời' đại học: Cần vì thực lực chứ không vì danh
Cách đây khoảng hơn chục năm, hàng loạt trường cao đẳng 'lên đời' thành trường đại học, thì xu hướng phát triển hiện nay là hàng loạt trường đại học đang chuẩn bị để trở thành 'đại học'.
Đại học Quốc gia Hà Nội, một trong 5 đại học đa lĩnh vực hiện nay của Việt Nam - ẢNH: NGỌC THẮNG
Tuy nhiên, nhiều trường đại học (ĐH) cũng xác định đây là một hành trình không dễ sớm tới đích, nếu như muốn phát triển thực chất chứ không chỉ vì cái danh "ĐH".Chưa có một ĐH đúng nghĩa
Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, cả nước có 267 cơ sở đào tạo ĐH (chưa tính các trường khối an ninh, quốc phòng) nhưng chỉ có 5 ĐH (ĐH Quốc gia Hà Nội, ĐH Quốc gia TP.HCM, ĐH Thái Nguyên, ĐH Huế và ĐH Đà Nẵng). Ngay cả với 5 ĐH này, nhiều chuyên gia cũng cho rằng đây thực chất chỉ là "liên hiệp các trường ĐH chuyên ngành". Một trong những nguyên nhân của thực trạng này liên quan tới lịch sử hình thành của các ĐH.
Tiến sĩ Nguyễn Viết Khuyến, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục ĐH (Bộ GD-ĐT), cho biết trước năm 1993 các cơ sở giáo dục ĐH của ta được xây dựng theo mô hình của Liên Xô, nên chỉ có các trường chuyên ngành. Để triển khai Nghị quyết T.Ư 4 (khóa 7), nhà nước chủ trương xây dựng các ĐH đa lĩnh vực.
"Theo đề án ban đầu, tất cả các ĐH đa lĩnh vực trên phải được tổ chức như một chỉnh thể thống nhất. Trong quá trình triển khai, các đơn vị trực thuộc vẫn giữ cấu trúc như cũ. Các trường thành viên vẫn hoạt động gần như độc lập, không phối hợp với nhau, nên ĐH không có được sức mạnh thực chất của một ĐH đa lĩnh vực", tiến sĩ Nguyễn Viết Khuyến cho biết.
Việc mở ngành là phải từ thực lực của mình, chứ không phải vì muốn thành đại học mà mở thêm nhiều ngành
Tiến sĩ Kiều Xuân Thực, Trưởng phòng Đào tạo Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội
Cũng theo tiến sĩ Khuyến, khi thành lập các ĐH đa lĩnh vực, xã hội mong chờ ở những ưu việt của mô hình này như bộ máy tổ chức gọn nhẹ, ngân sách được đầu tư tập trung, sinh viên được tự do lựa chọn học các môn học hoặc các chương trình liên ngành ở các trường khác nhau trong một ĐH... Vì thế, nếu ĐH đa lĩnh vực được hình thành từ các trường ĐH chuyên ngành thì phải cải tổ về bộ máy, hệ thống quản trị chỉ có 3 cấp là: ĐH (University), trường (college) và khoa (department). Nhưng cả 5 ĐH đa lĩnh vực hiện nay đều có cấu trúc 4 cấp: ĐH, trường, khoa, bộ môn. Đã vậy, các trường thành viên khi chuyển ngữ cấu trúc 4 cấp trên qua tiếng Anh thì thành ra mô hình University - University - Faculty - Department, gây ra sự hiểu lầm khiến bạn bè quốc tế tưởng ĐH đa lĩnh vực ở Việt Nam là các... tập đoàn ĐH!
Đã có hành lang pháp lý, chỉ còn vấn đề thực lực
Trên thực tế, trước đòi hỏi của nhu cầu xã hội, sau năm 2000, nhiều trường ĐH bắt đầu chuyển từ đào tạo đơn ngành sang đa ngành, thậm chí đổi hẳn tên gọi.
Tiên phong cho xu hướng này phải kể đến Trường ĐH Vinh, vốn tên cũ là Trường ĐH Sư phạm Vinh (được đổi tên năm 2001); sau đó là Trường ĐH Hà Nội, vốn tên cũ là Trường ĐH Ngoại ngữ Hà Nội (bắt đầu đào tạo đa ngành từ năm 2002, đổi tên năm 2006).
Dù hàng loạt trường mở ra đa ngành thì hầu hết cơ sở giáo dục ĐH (trừ 5 ĐH nói trên) vẫn chỉ là trường ĐH hoặc học viện. Luật Giáo dục ĐH sửa đổi cũng đã quy định chính sách ưu tiên đầu tư phát triển một số cơ sở giáo dục ĐH mang tầm khu vực, quốc tế. Luật cũng yêu cầu Chính phủ quy định chi tiết việc chuyển trường ĐH thành ĐH. Yêu cầu này đã được Chính phủ thực thi qua việc ban hành Nghị định 99 vào cuối năm 2019.
Điều kiện chuyển đổi từ trường ĐH thành ĐH
Theo Nghị định 99 hướng dẫn thực hiện luật Giáo dục ĐH sửa đổi, điều kiện để chuyển trường ĐH thành ĐH gồm: đã được công nhận đạt chuẩn chất lượng cơ sở giáo dục ĐH; có ít nhất 3 trường thuộc trường ĐH được thành lập; có ít nhất 10 ngành đào tạo đến trình độ tiến sĩ; có quy mô đào tạo chính quy trên 15.000 người; có ý kiến chấp thuận của cơ quan quản lý trực tiếp đối với trường ĐH công lập; có sự đồng thuận của các nhà đầu tư đại diện ít nhất 75% tổng số vốn góp đối với trường ĐH tư thục, trường ĐH tư thục hoạt động không vì lợi nhuận.
Vì thế, trong năm 2020, nhiều trường vừa "chiến đấu" với Covid-19 vừa rục rịch cho việc chuẩn bị trở thành ĐH. Dù luật khuyến khích quá trình sắp xếp, sáp nhập các trường ĐH thành ĐH lớn nhưng cho đến nay chưa có bất kỳ một ý tưởng thành lập ĐH nào theo cách này. Hầu hết các trường đều chọn giải pháp "phát triển nội lực", tức là tự mình đảm bảo các điều kiện để "lên đời".
Chẳng hạn Trường ĐH Bách khoa Hà Nội hiện đang tích cực thúc đẩy các thủ tục để đạt các điều kiện cần thiết (thành lập 3 trường ĐH trực thuộc) với mục tiêu cuối năm nay được Chính phủ phê duyệt quyết định thành lập ĐH.
Với những trường cho đến nay vẫn đào tạo đơn ngành thì động thái đầu tiên để chuẩn bị cho hành trình lên đời ĐH là phải mở thêm ngành mới để thành trường ĐH đa ngành. Những trường đã có đa ngành thì vẫn phải chuẩn bị thêm, ngay cả với những trường đã có uy tín trong xã hội.
PGS Phạm Hồng Chương, Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế quốc dân, nói: "Phát triển thành ĐH đa ngành là xu hướng tất yếu, bởi có như thế cơ sở đào tạo mới tận dụng được những lợi thế về quy mô, về nguồn lực, và quan trọng đó là môi trường tạo điều kiện tốt nhất cho các nhà khoa học liên kết với nhau, liên kết với đối tác khác, thực hiện các hoạt động nghiên cứu và giảng dạy của mình, giúp cho trường ĐH trở thành trung tâm khoa học tương đối toàn diện". Vấn đề ở đây, theo PGS Phạm Hồng Chương, để phát triển ĐH đa ngành thì phải có thời gian, phải có nguồn lực.
Tiến sĩ Kiều Xuân Thực, Trưởng phòng Đào tạo Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội, bày tỏ: "Vấn đề là phải thực chất, đào tạo có chất lượng, đạt được tầm vóc ĐH thực thụ. Việc mở ngành là phải từ thực lực của mình, chứ không phải vì muốn thành ĐH mà mở thêm nhiều ngành".
Hơn 13 nghìn sinh viên Đại học Thái Nguyên trở lại trường Ngày 8/3, sinh viên, học viên các trường thuộc Đại học Thái Nguyên đã chính thức trở lại trường học sau khi nghỉ học nhiều ngày trước diễn biến phức tạp của dịch Covid-19. Sinh viên trường Đại học Sư phạm (Đại học Thái Nguyên) kiểm tra thân nhiệt và khai báo y tế trước khi vào trường. Các nhà trường thuộc Đại...