Trứng cá muối – từ thức ăn gia súc đến bàn tiệc 5 sao
Từng bị vứt lại bên bờ biển hoặc làm thức ăn cho lợn vào thế kỷ 19, trứng cá muối hiện nay có giá tới 35.000 USD một kg.
Từ “Caviar”, nguồn gốc từ “Khavyar” trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, lần đầu tiên xuất hiện trong tài liệu ghi chép tiếng Anh vào năm 1591 để chỉ trứng cá muối của họ cá tầm. Đây là một trong những loại thực phẩm đắt nhất thế giới với giá khoảng 35.000 USD (gần 800 triệu đồng) một kg. Hiện nay, trứng cá muối là món ăn được giới thượng lưu trên khắp thế giới “tôn sùng”, tuy nhiên thực khách chỉ có thể bắt đầu thích và nghiện khi đã thưởng thức rồi.
Trứng cá muối caviar – “ngọc trai đen” từ biển cả. Ảnh: aldi.
Tuy “đắt xắt ra vàng” và được săn lùng như vậy, trước đây trứng cá muối lại từng rất rẻ mạt. Vào thế kỷ 19, những loài thuộc họ cá tầm ở Mỹ nhiều tới nỗi trứng cá muối thường được cho không tại các quán nhậu. Ở châu Âu, ngư dân thường lấy chúng đem cho lợn ăn hoặc vứt bỏ lại bên bờ biển đến hỏng.
Thời điểm đó, các vùng biển của Mỹ thừa thãi cá tầm. Henry Schacht (một người Đức nhập cư) tận dụng nguồn cá này để bắt đầu xuất khẩu trứng cá muối sang châu Âu với giá chừng 2 USD cho mỗi kg từ năm 1783. Nhiều người khác cũng bắt tay vào làm theo, cho tới cuối thế kỷ 19 nước Mỹ trở thành nước xuất khẩu trứng cá muối lớn nhất thế giới.
Trong suốt thời kỳ trứng cá muối thành món ăn phổ biến, nhiều chuyến hàng chuyển tới châu Âu lại được nhập về Mỹ với nhãn dán là “trứng cá muối Nga”. Trong khi đó trứng cá muối từ các dòng sông ở Nga luôn được coi là đồ thượng hạng. Vào năm 1900, bang Pennsylvania (Mỹ) thực hiện một báo cáo cho kết quả 90% trứng cá muối Nga bán tại châu Âu thực chất có nguồn gốc từ Mỹ.
Khi trứng cá muối ở Mỹ tạo thành cơn sốt vào thế kỷ 19, các loài cá tầm bị đánh bắt quá mức dẫn đến khan hiếm trầm trọng tới độ có thể bị tuyệt chủng. Chính sự thiếu hụt đột ngột này tạo nên bước nhảy vọt về giá của trứng cá muối, dẫn tới việc các nhà cung cấp dán nhãn trứng cá muối của Nga để khẳng định nguồn gốc.
Tiến sĩ Arne Ludwig, Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN), chia sẻ trên Business Insider: Trong tình hình hiện tại, cá tầm sẽ cạn kiệt vì con người ngày càng khai thác quá mức đồng thời phá hủy môi trường sống của chúng. Năm 2010, IUCN liệt kê 18 loài cá tầm vào Sách Đỏ, nghĩa là chúng trở thành những loài đang gặp nguy hiểm nhất thế giới. Điều này dẫn tới những loài cá tầm này cần được quan tâm, bảo vệ nhiều hơn để tránh giảm số lượng.
Nhưng trứng cá tầm càng hiếm, con người càng khát khao có chúng. Cá có thể tăng trọng lượng tới vài trăm kg và sản sinh ra hàng chục kg trứng. Kỷ lục thế giới từng trao cho con một cá tầm beluga nặng tới hơn 1.143 kg với 408 kg trứng. Như giá hiện nay thì con cá đó trị giá khoảng 500.000 USD.
Ô nhiễm nguồn nước và xây dựng nhiều đê đập chặn các dòng chảy vào thế kỷ 20 khiến cá không lên được thượng nguồn để sinh sản. Mất 8 – 20 năm (tùy loài) để một con cá cái có thể trưởng thành. Sau đó nó mới có thể đẻ hàng triệu quả trứng một lúc nhưng trong số đó chỉ có một con sống được tới tuổi trưởng thành. Cuối cùng số lượng cá tầm không thể tăng lên theo nhu cầu và trứng của chúng trở thành “đá quý” trong giới ẩm thực thượng hạng.
Đến thập niên 1960, giá trứng cá muối cao ngất ngưởng khiến người ta bắt đầu tìm kiếm những nguồn cung mới. Ví như công ty Romanoff Caviar của Mỹ (thành lập năm 1859) đã làm trứng cá muối từ trứng của cá hồi, cá vây tròn, các loại cá thịt trắng từ cuối năm 1982. Đây là những nguồn trứng cá muối tiết kiệm hơn so với các loại nhập khẩu.
Cách bảo quản trứng cá muối cũng rất tinh tế bởi chúng kỵ kim loại (trừ vàng). Do đó, nếu dùng các khay, bát, đĩa, thìa kim loại như bạc, sắt, inox để đựng và múc trứng cá muối sẽ làm nó bị nhiễm mùi và đổi màu ngay. Khi đó món ăn đắt đỏ sẽ mất giá ngay lập tức. Trứng cá muối luôn phải được giữ lạnh, đựng bằng đồ pha lê, hay thủy tinh, thìa để xúc phải làm từ xương, vỏ trai, hàu.
Video đang HOT
Một điều quan trọng khác là món trứng cá muối này phải được ăn sống. Nếu mang chúng đi nấu chín thì những quả trứng nhỏ này sẽ biến chất, đổi mùi vị và trở nên cứng ngắc. Ăn trứng cá muối theo cách truyền thống và đơn giản nhất là dùng thìa nhỏ xúc một chút và ăn sống luôn. Đối với người ăn món này lần đầu, ăn lượng nhỏ sẽ giúp thực khách cảm nhận hương vị rõ hơn.
Ngoài ra trứng cá muối còn có thể ăn kèm bánh mì trắng, bánh kếp mỏng, hay bánh mì ngọt và thêm một chút bơ. Ở châu Âu, trứng cá muối đôi khi ăn kèm với những quả cà chua hấp, hay khoai tây luộc. Mùi vị và hương thơm của trứng cá muối có chút giống rong biển, chúng không tanh vị cá và cũng không quá mặn. Từng quả trứng cá nhỏ xíu được mô tả như quả cầu mọng nước ngọt ngào bùng nổ trong miệng tạo cho thực khách một cảm giác mê ly thật sự.
Cà ri - đặc sản hơn 4.500 tuổi
Ở mỗi quốc gia, món cà ri được biến tấu với những nguyên liệu và hương vị khác nhau.
Theo CNN, cà ri có nguồn gốc từ 2.500 trước Công nguyên ở khu vực Pakistan ngày nay. Món ăn này đã đi khắp thế giới thông qua việc thực dân hóa, nhập cư, lao động và kinh doanh. Ngày nay, cà ri có ở khắp mọi nơi với hương vị đa dạng, như cà ri gà sốt bơ Ấn Độ, cà ri xanh ở Thái Lan, cà ri dê ở Jamaica...
Ấn Độ
Món ăn mà du khách có thể tìm thấy trên khắp Ấn Độ đồng thời nổi tiếng thế giới chính là murgh makhani - gà sốt bơ. Món ăn mang hương vị cay ngọt, hòa quyện cùng sốt bơ béo thơm lừng.
Ngoài ra, vindaloo cũng là một món cà ri nên thử ở Ấn Độ. Bắt nguồn từ cụm từ Bồ Đào Nha "vinha d'alhos", có nghĩa là thịt ướp trong tỏi và giấm rượu, món ăn nóng và cay này được làm theo truyền thống với thịt lợn, giấm, cà chua, hành tây, ớt đỏ, tỏi và hỗn hợp nhiều gia vị.
Gà sốt bơ được ướp sữa chua rồi nướng trong lò tandoor (lò đất sét của người Ấn), sau đó rưới nước sốt kem, cà chua, hành và nhiều loại gia vị. Ảnh: Shutterstock.
Nhật Bản
Cơm cà ri Nhật Bản (kare raisu) có hương vị nhẹ nhàng và được coi là món ăn quốc gia. "Trong một cuộc khảo sát, người Nhật chọn cơm cà ri là một trong ba món ăn nấu tại nhà yêu thích của họ, còn các học sinh Nhật Bản bầu chọn đây là bữa trưa ngon nhất", tác giả Colleen Sen viết trong cuốn "Lịch sử cà ri thế giới".
Thường được nấu từ bột hoặc viên gia vị cà ri làm sẵn, cà ri Nhật bao gồm thịt bò hầm, hành tây và cà rốt phủ lên cơm bên dưới. Một số loại bột cà ri làm sẵn cũng kết hợp thêm mật ong và táo nghiền để thêm vị ngọt. Bên cạnh đó, một biến thể phổ biến khác của cà ri ở Nhật là katsu kare, gồm thịt lợn chiên giòn (gọi là tonkatsu) và nước sốt đặc, nâu phủ trên cơm.
Thái Lan
Cà ri Thái (gaeng) có nhiều màu sắc như đỏ, vàng và xanh lá. Món ăn là sự kết hợp cân bằng giữa ngọt, chua, mặn và cay; thường chứa nước cốt dừa, mắm tôm lên men, sả và đường cọ.
Dù có nguyên liệu chính là nước cốt dừa, các món cà ri Thái có hương vị và cách nấu khác nhau trên cả nước. Du khách sẽ thấy nhiều loại cà ri khô ở phía bắc và các loại cà ri nước ở miền trung và nam Thái Lan. Các món nên thử là cà ri thịt bò khô từ miền nam, cà ri đậu phộng massaman bổ dưỡng và cà ri panang, một kiểu biến tấu ngọt và dịu hơn từ công thức cà ri đỏ.
Malaysia
Với vị trí địa lý dọc theo eo biển Malacca, tuyến giao thương hàng hải quan trọng giữa đông và tây, ẩm thực Malaysia chịu ảnh hưởng từ nhiều nền văn hóa. Cà ri của Malaysia nổi bật với các món như cà ri đầu cá tangy, cà ri gà, cà ri đậu lăng dalcha.
Bên cạnh đó, ẩm thực Nyonya - những món ăn được tạo ra bởi cộng đồng người Peranakan (con lai của đàn ông Trung Quốc và những người phụ nữ Malaysia bản địa) cũng đóng một vai trò quan trọng. Một trong những món cà ri Nyonya nổi tiếng nhất là kari ayam (cà ri gà), được chế biến từ các nguyên liệu gồm mắm tôm, nước cốt dừa, cây hồi, quế, nước mắm, chanh, nghệ, gừng...
Ngoài ra còn có món cà ri gà kapitan, với những miếng thịt gà xào trong bột cà ri sau đó ninh trong nước cốt dừa, nước me và nước quế thơm.
Maldives
Ẩm thực Maldives chịu ảnh hưởng rất lớn từ nhiều thế kỷ giao thương với Ấn Độ, châu Phi và Trung Đông. Vì vậy, quốc đảo nhỏ bé này có một nền ẩm thực phong phú với nhiều loại cà ri xoay quanh ba nguyên liệu chính: dừa, cá và nhiều loại tinh bột khác nhau. Nói đến cà ri nơi đây, du khách có thể mong đợi những món ăn nóng và cay với hải sản và trái cây nhiệt đới.
Với vị thơm béo, món ăn này được làm từ nước cốt dừa, ớt tươi, quế, một hỗn hợp các loại gia vị và cá ngừ thái hạt lựu. Cà ri cá ngừ xoài (anbu riha) chua ngọt cũng là một món nổi bật khác. Du khách có thể tìm thấy nhiều loại cà ri chay như cà tím, bí ngô, khoai tây, súp lơ và chuối xanh.
Thường được dùng với cơm hoặc bánh mì dẹt roshi, cà ri cá (mas riha) là một trong những loại cà ri địa phương phổ biến nhất. Ảnh: Shutterstock.
Sri Lanka
Cà ri tại đây có màu cầu vồng, từ vàng sáng đến trắng kem, đỏ tươi và nâu đậm. Mặc dù có hương vị khác nhau, các món cà ri ở nước này thường sử dụng các nguyên liệu như nước cốt dừa, me, cá, ớt xanh, hạt mù tạt, rau mùi và thì là.
Bữa ăn chính của người Sri Lanka thường bao gồm cơm cùng ít nhất một món cà ri, và từ 4 đến 12 món ăn kèm như tương ớt, dưa chua và sambol (gia vị cay). Các loại cà ri phổ biến là cà ri đậu lăng (parippu), cà ri mít xanh (polos), cà ri gà (kukul mas), và cà ri cá chua (ambul thiyal).
Nam Phi
Ở Durban, Nam Phi, cà ri xuất hiện dưới tên gọi "bunny chow" - bánh mì ăn kèm cà ri và dưa chua. Đây được xem là món đồ ăn nhanh của Nam Phi, cà ri nóng hổi được đặt trong trong một ổ bánh mì khoét rỗng. Món có nhiều biến thể khác nhau như cà ri làm từ thịt cừu, thịt gà, rau và tôm.
Món ăn này hiếm khi được dùng với dao dĩa mà khách hàng thường dùng phần bánh mì ở trên để múc nước sốt cay. Ảnh: Siyabonga Mkhasibe/Culture Trip.
Pakistan
Quốc gia có đa số dân theo Hồi giáo này thường nấu các món ăn với thịt bò, thịt gà hoặc cá và nhiều loại gia vị như hạt nhục đậu khấu, thì là, nghệ, lá nguyệt quế, thảo quả và hạt tiêu đen.
Cà ri rất phổ biến tại đây, đặc biệt là món cà ri haleem (gồm lúa mì, lúa mạch, thịt, đậu lăng và gia vị). Bên cạnh đó còn có cà ri karahi cay (gồm tỏi, gia vị, giấm, cà chua và hành tây với thịt cừu hoặc thịt gà), cà ri mướp đắng, cà ri đậu lăng nấu bơ. Các món này thường ăn với cơm hoặc bánh mì roti (bánh mỳ mỏng dẹt kiểu Ấn Độ). Du khách cũng nên thử món cà ri thịt và khoai tây (aloo gosht), cà ri thịt cừu béo (korma), cà ri đậu đen (lobia daal).
Caribbean
Ở khu vực Caribbean, cà ri đặc biệt phổ biến tại các nước thuộc địa cũ của Anh như Jamaica, Saint Kitts và Nevis, Guyana, Trinidad và Tobago. Các món cà ri thường có cua, tôm, vịt, đậu xanh, khoai tây cũng như nước sốt thì là, ăn kèm cùng bánh mì roti (bánh mì dẹt).
"Ở Trinidad, họ sử dụng nhiều loại gia vị khác nhau tùy theo những gì họ có. Vì vậy, họ thường dùng nhiều thì là, rau mùi, một loại thảo mộc tương tự cỏ ba lá và nghệ trong hỗn hợp gia vị Trinidadian điển hình", tác giả Colleen Sen viết.
Tương tự, ở Jamaica, sự pha trộn ảnh hưởng của văn hóa Anh và Ấn Độ đã tạo ra cà ri dê địa phương - món cà ri phổ biến nhất của hòn đảo. Cà ri dê mềm và thơm nhờ các thành phần như nước cốt dừa, tỏi, hành tây, ớt, húng tây, cà chua và rất nhiều bột nghệ, tạo ra món ăn màu vàng nắng.
15 đặc sản "siêu kinh dị" của ẩm thực thế giới, chỉ nghe tên đã sởn gai ốc Những món ăn này được người dân bản địa yêu thích đến nghiện, nhưng là nỗi khiếp sợ với du khách quốc tế ngay từ cái tên. 1. Thịt ngựa sống - Nhật Bản: Thịt ngựa sống được phục vụ như một món ăn riêng hoặc chế biến thành sushi. Người dân Nhật Bản dường như đã quá quen với những món ăn...