Trong trường tư thục, tài sản của nhà đầu tư nên được xác định thế nào?
Bà Nguyễn Kim Dung – Trường Đại học Anh Quốc đề xuất, nhà đầu tư phải thành lập một pháp nhân để nhà nước quản lý số vốn của nhà đầu tư.
Loay hoay tìm pháp nhân cho nhà đầu tư
Bà Nguyễn Kim Dung – Giám đốc Pháp chế và Đối ngoại Trường Đại học Anh Quốc phân tích, theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư phải thành lập nhà trường thông qua tổ chức kinh tế.
Nếu như trong dự thảo luật quy định rằng, thành lập pháp nhân nhà trường là không đúng.
Bà Nguyễn Kim Dung – Giám đốc Pháp chế và Đối ngoại Trường Đại học Anh Quốc. (Ảnh: H.L)
Bởi, nhà đầu tư nước ngoài thành lập dự án nhà trường thông qua tổ chức kinh tế theo quy định của Luật đầu tư. Nếu như nhà trường là pháp nhân có nghĩa là pháp nhân trong pháp nhân.
Bà Dung nhấn mạnh: &’Như vậy không tương thích với quy định của luật đầu tư”.
Ngoài ra, trong hệ thống trường có vốn đầu tư nước ngoài thì đại diện trước pháp luật là Tổng giám đốc.
Bà Nguyễn Kim Dung đánh giá, còn nếu nhà trường là pháp nhân thì đại diện trước pháp luật là Hiệu trưởng nhà trường.
Có nghĩa, 2 vấn đề này không tương thích và không đảm bảo hoạt động của trường có vốn đầu tư nước ngoài. Nếu như quy định của trong luật như vậy là không đúng.
Toàn bộ các hoạt động của nhà trường về tài chính, tài sản, góp vốn, đầu tư là do tổ chức kinh tế điều hành và toàn bộ các hoạt động của nhà trường do Hiệu trưởng nhà trường quản lý.
Nhà trường hoạt động theo các quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và theo quy định của Luật Giáo dục hiện hành về mở ngành, giảng viên và người học. Với hệ thống như vậy thì rất rõ ràng giữa sở hữu tài sản của nhà đầu tư và với hoạt động của nhà trường.
Bà Dung nhấn mạnh, cần phải tách biệt ra sở hữu tài sản của nhà đầu tư và tách biệt các hoạt động về mở ngành, học thuật của nhà trường.
Video đang HOT
Trường công lập là trường có tư cách pháp nhân, sử dụng nguồn vốn của nhà nước và thực hiện theo quy định của pháp luật về trường công.
Còn đối với trường tư thục và trường có vốn đầu tư nước ngoài là loại hình trường vì lợi nhuận cần phải có sự quản lý của nhà nước rõ ràng về tài sản.
Trong luật cần có quy định, chế định về quản lý tài sản này để đảm bảo sự hoạt động ổn định của nhà trường.
Bà Dung đặt câu hỏi, vậy thì quản lý như thế nào?
Với một cá nhân khi thành lập trường nếu như không quy định là phải thành lập ra một tổ chức kinh tế là pháp nhân để quản lý phần vốn thì sẽ dẫn tới theo quy định của luật dân sự. Lúc này, chủ sở hữu tài sản là cá nhân, này tài sản sẽ liên quan đến các thành viên của gia đình.
Bà Dung khẳng định, trong trường hợp có tranh chấp thì căn cứ vào luật nào để xử lý tài sản cá nhân đó. Tham khảo những quy định của Singapore, Malaysia thì các nước này đều quy định, trước khi thành lập cơ sở giáo dục thì nhà đầu tư phải thành lập tổ chức kinh tế theo quy định của luật nước đó.
Singapore và Malaysia hiện đang áp dụng theo mô hình đó với các trường tư và trường quốc tế. Cho nên, trong luật cần phân định rõ, trường công là loại hình đặc biệt, tồn tại theo cơ chế khác và trường tư, trường nước ngoài là một mô hình quản trị khác.
Nhà đầu tư chưa thể quản lý được vốn của mình
Đối với việc sở hữu tài sản với trường công thì tài sản là của nhà nước nhưng đối với trường tư thục và trường có vốn đầu tư nước ngoài thì đây là tài sản của các nhà đầu tư. Nhà nước vẫn sẽ quản lý các trường tư nhưng phải được xem đây là loại hình đặc biệt.
Bà Dung dẫn chứng theo WTO, dịch vụ giáo dục là loại hình đặc biệt cần phải có sự quản lý của nhà nước đối với số tài sản của nhà đầu tư đầu tư vào giáo dục.
Trong luật, cần có chế định, đối với giáo dục là đặc thù thì cho phép nhà đầu tư được thành lập theo hình thức tổ chức kinh tế nào để đảm bảo sự hoạt động ổn định nhà trường.
Đơn cử, trong luật chứng khoán và theo luật Việt Nam thì cho phép thành lập công ty cổ phần. Theo luật Nhật Bản, chỉ cho phép thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn theo quy định của nhà nước đó.
Hoặc theo châu Âu, luật chứng khoán cho phép cá nhân lẫn công ty, công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập công ty.
Bà Nguyễn Kim Dung nhận định, tức là, tùy từng điều kiện của mỗi nước để cho phép loại hình dịch vụ đó được phép thành lập tổ chức kinh tế nào.
Với giáo dục tại Việt Nam, đây là loại hình đặc thù đặc biệt cần phải có sự quản lý của nhà nước thì phần vốn của nhà đầu tư đầu tư vào cơ sở giáo dục thì cần có sự quản lý của nhà nước đối với phần vốn này.
Hiện nay, các trường tư thục đang có sự tranh chấp về tài sản là vì tài sản của nhà đầu tư đầu tư vào trong nhà trường không được quy định bởi bất kỳ các quy định, pháp lý nào.
Bà Dung từng tham gia một số cuộc tranh chấp của các trường và hiểu rõ việc tranh chấp ở đây là tài sản của nhà đầu tư đầu tư vào trường.
Nếu như quy định nhà trường là pháp nhân thì có nghĩa là nhà đầu tư phải chuyển tài sản của mình vào pháp nhân là nhà trường.
Và nếu như thế, nhà đầu tư sẽ không bao giờ chuyển vào. Dưới góc độ này, luật giáo dục đã tạo ra “kẻ hở” để cho nhà đầu tư… lách.
Bà Dung khẳng định, để đảm bảo quy định của nhà nước về số vốn đầu tư của nhà đầu tư vào trong trường tư thục và trường có vốn đầu tư nước ngoài cần phải quy định: “Nhà đầu tư phải thành lập một pháp nhân để nhà nước quản lý số vốn của nhà đầu tư”.
“Theo quy định của luật đầu tư và luật doanh nghiệp, nhà đầu tư phải phân định rõ tài sản riêng dành cho đầu tư trong giáo dục, tài sản riêng độc lập này cần được khẳng định bằng một giấy tờ pháp lý. Đó chính là Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp”, bà Dung kết thúc vấn đề.
Theo giaoduc.net.vn
Giáo sư Ngô Bảo Châu: Nhà nước phải đầu tư cho cả nghiên cứu và đào tạo
Theo Giáo sư Ngô Bảo Châu, việc nhiều trường dùng một phần học phí để chi cho hoạt động nghiên cứu là vô lý. Ngay cả với hoạt động đào tạo, tất cả chi phí không thể dồn hết cho người học mà vẫn cần được nhà nước đầu tư.
GS Ngô Bảo Châu trả lời phỏng vấn - LÊ HIỆP
Nói về con đường đổi mới giáo dục ĐH, Giáo sư (GS) Ngô Bảo Châu cho rằng không có một giải pháp triệt để thay đổi cục diện mà phải bắt đầu từ những câu chuyện thực tế, từ đó đưa ra con đường khả dĩ nhất mà ĐH VN nên lựa chọn để đi.
GS Châu cho biết: "Muốn thay đổi tất nhiên là phải tăng đầu tư, cả từ nguồn ngân sách và từ xã hội nữa. Nhưng đầu tư phải đi cùng với tăng chất lượng thì người ta mới chấp nhận được".
Phải tăng đầu tư cho giáo dục ĐH
Có ý kiến cho rằng trong bối cảnh nguồn lực nhà nước không tăng, muốn tăng suất đầu tư cho đào tạo thì phải giảm quy mô ĐH công lập, GS đồng ý không?
Cái này đòi hỏi phải nghiên cứu rất chi tiết nên tôi không thể bình luận ngay được. Bởi còn phải tùy ngành nghề, ngành này có thể giảm nhưng ngành kia phải tăng. Rõ ràng phải điều chỉnh lại, có chỗ tăng, chỗ giảm nhưng về cơ bản là đầu tư vào ĐH phải tăng lên cả từ nguồn ngân sách nhà nước và nguồn xã hội. Điều chỉnh như thế nào thì phải có các nghiên cứu để đưa ra khuyến nghị cụ thể.
Đòi hỏi tăng nguồn chi ngân sách cho ĐH có hợp lý không khi nhiều ý kiến cho rằng ĐH thế giới phát triển mạnh nhờ các nguồn đầu tư ngoài nhà nước?
Trên thế giới, ngay cả các ĐH tư cũng có phần đầu tư đáng kể của nhà nước, nhưng không phải đầu tư vào phần chi phí giảng dạy sinh viên (SV) mà là đầu tư vào nghiên cứu khoa học. ĐH tư của Mỹ cũng được nhận hỗ trợ của nhà nước cho nghiên cứu, phần hỗ trợ đó thậm chí còn tương đương với phần kinh phí các trường thu được từ nguồn học phí. Có thể hiểu đơn giản thế này, công thức chung về nguồn chi cho ĐH bao gồm ngân sách nhà nước học phí các nguồn xã hội ngoài học phí.
Nhưng nhiều người phàn nàn là ở nước ta nguồn chi cho ĐH phần lớn là từ học phí, thêm một ít từ nhà nước, còn từ nguồn lực xã hội là rất yếu, GS nghĩ sao?
Trên thế giới này có lẽ chỉ ở Mỹ là có truyền thống xã hội đóng góp cho ĐH rất nhiều. Việc cá nhân bỏ tiền túi của mình ra đóng góp cho ĐH thì hầu như chỉ có ở Mỹ.
Đa số các nước châu Âu việc đầu tư cho ĐH dùng tiền ngân sách là chính. Đức, Pháp hầu như không thu học phí. Các nước châu Á thì cũng tùy nước. Như Malaysia thì đầu tư từ ngân sách nhà nước rất lớn. Theo con số mà tôi nắm được, suất đầu tư cho ĐH của VN chỉ là 600 USD/SV/năm, còn Malaysia là 6.000 USD. Nghĩa là Malaysia có GDP chỉ gấp đôi VN, nhưng đầu tư cho ĐH theo đầu SV cao gấp 10 lần chúng ta.
Lấy học phí để đầu tư cho nghiên cứu khoa học là vô lý
Như GS trao đổi ở trên, chúng ta phải chấp nhận thực tế là chi cho ĐH chỉ có thể chủ yếu dựa vào 2 nguồn: từ nhà nước và thu học phí. Và thực tế là hiện nay nguồn thu chủ yếu dựa vào học phí. GS nghĩ thế nào về điều này?
Nhóm của chúng tôi cũng đang nghiên cứu các vấn đề liên quan để trên kết quả nghiên cứu có thể đưa ra khuyến nghị chính sách mà xã hội cảm thấy hợp lý đối với cả người học và nhà nước. Ví dụ, không thể tránh việc tăng học phí để tăng chất lượng.
Vấn đề tăng suất đầu tư là để tăng giá trị của bậc ĐH, trong đó đâu là phần mà người dân đóng góp (học phí), đâu là phần nhà nước phải đầu tư. Có rất nhiều yếu tố khác nhau chi phối tới việc giải bài toán này, chẳng hạn phải tính toán rõ ràng xem ngành nghề đó sau khi ra trường thì kỳ vọng thu nhập như thế nào, từ kỳ vọng thu nhập đó mà suy ra được gia đình người học có thể sẵn sàng trả mức học phí đến đâu. Rồi còn tùy vào sự ưu tiên của nhà nước đối với từng ngành nghề. Chẳng hạn, khả năng chi trả của người học quá thấp nhưng nhà nước thấy vẫn cần phải đầu tư về lâu dài thì nhà nước phải đầu tư.
Hiện nay có việc các trường trích một phần tiền từ học phí để chi cho nghiên cứu, GS có đồng ý không?
Hiện tại, nhiều trường vẫn lấy học phí cho nghiên cứu khoa học. Khoản tiền đó chỉ mấy phần trăm, rất là nhỏ, và nó không giải quyết được vấn đề gì ngoài việc xoa dịu những thiếu thốn về đầu tư cho nghiên cứu trong trường ĐH. Dù nó nhỏ, nhưng nó vô lý, vì về nguyên tắc người học không có trách nhiệm phải hỗ trợ hay tài trợ cho nghiên cứu khoa học của giảng viên. Đó là việc của nhà nước và các quỹ nghiên cứu.
Như vậy, quan điểm của GS là ngay cả với chi phí đào tạo thì người học cũng chỉ phải gánh một phần chi phí chứ không phải toàn bộ? Và một phần thì bao nhiêu là hợp lý?
Trong nhóm chúng tôi, có bạn đã tìm hiểu thì thấy ở Úc họ chia cơ cấu đầu tư của nhà nước, của xã hội và của người học tùy theo các ngành khác nhau. Đó là một cách làm hay mà chúng ta nên tham khảo. Chẳng hạn, chúng ta đang rất cần nhiều hơn cán bộ y tế, bác sĩ, mà ngành này phải học rất lâu nên chưa chắc cái kỳ vọng về thu nhập đã đủ để lôi kéo người học, nên nếu nhà nước cần thì phải bù vào phần đó. Trong khi đó, có những ngành như luật, kinh tế kỳ vọng thu nhập so với đầu tư gần như giống nhau thì nhà nước không cần đầu tư nữa.
Theo thanhnien.vn
Điểm cộng của trường đại học chuẩn quốc tế RMIT Việt Nam Sinh viên có nhiều cơ hội cọ sát thực tế, rèn luyện kỹ năng mềm, dễ dàng học chuyển tiếp tại nhiều quốc gia... Chương trình học chuẩn quốc tế RMIT Việt Nam là đại học quốc tế 100% vốn đầu tư nước ngoài. Trường thành lập từ lời mời của Chính phủ Việt Nam vào năm 2000. Kể từ khóa đầu tiên...