Tranh biện về sách giáo khoa phải bám sát chương trình giáo dục phổ thông 2018
Trong những ngày vừa qua, sau bức thư ngỏ của ông Đào Quốc Vịnh gửi Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn phản ánh việc sách giáo khoa “ Tiếng Việt 1, tập một” thuộc bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” của NXB Giáo dục Việt Nam không dạy âm “p” (âm “pờ”), chữ “p”, dư luận xã hội đã dậy sóng theo nhiều chiều.
Nội dung phản ánh của ông Vịnh đã được Bộ trưởng quan tâm và kịp thời yêu cầu các cơ quan liên quan vào cuộc kiểm tra và xem xét để sớm có giải pháp khắc phục.
Đào Quốc Vịnh – Hội viên Hội nhà văn Việt Nam, Hiệu trưởng Trường tiểu học Tô Hiến Thành, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
Một vấn đề tưởng như rất nhỏ như dạy một chữ “p” mà được dư luận xã hội quan tâm, Bộ trưởng kịp thời chỉ đạo xem xét thì đó là điều đáng mừng. Đặc biệt, vấn đề này còn được các nhà khoa học về ngôn ngữ và giáo dục đặc biệt quan tâm. Một xã hội mà các trí thức còn bàn luận, tham gia ý kiến là một xã hội phát triển. Sợ nhất là các trí thức quay lưng lại với các vấn đề của xã hội.
Trong quá trình tranh biện, có một vài nhà khoa học cho rằng, đây là vấn đề học thuật và những lý thuyết chuyên sâu nên một ông Hiệu trưởng tiểu học hay những cô giáo tiểu học không thể hiểu được. Tôi cho rằng quan điểm này không đúng đắn, bởi lẽ sách giáo khoa phổ thông ngoài tư cách là một công trình khoa học, nó còn phải là một sản phẩm có tính ứng dụng rất cao.Nếu sách giáo khoa cao siêu đến mức ngay cả những người trực tiếp giảng dạy và quản lý nhà trường không thể hiểu được thì làm sao có thể đạt được hiệu quả giáo dục?
Video đang HOT
Ai cũng biết rằng Chân lý là những điều giản đơn. Liệu Chân lí có bí hiểm đến mức rõ ràng sách không dạy âm “p”, chữ “p” ở bài đáng ra phải dạy mà vẫn tìm mọi cách ngụy biện là có dạy không?
Một số nhà chuyên môn còn dựa vào sách dạy “học vần” cách đây từ 20 năm (2002) đến trên 60 năm (1958) không dạy chữ “p” với tư cách là kí tự ghi một phụ âm độc lập mà chỉ dạy chữ “p” ghép với chữ “h” thành “ph” ghi âm “phờ” để biện minh rằng sách giáo khoa “Tiếng Việt 1, tập một”thuộc bộ sách “Kết nối tri thức …” không dạy riêng phụ âm “p” khi nó mở đầu âm tiết là đúng. Lập luận này không dựa trên nhận thức tiếng Việt là một SINH NGỮ và dạy SINH NGỮ khác với dạy “tử ngữ”. Người biên soạn sách không thể không biết rằng, trong sự vận động không ngừng của cuộc sống, sẽ có nhiều từ không còn được sử dụng trong giao tiếp hằng ngày nữa mà chỉ còn lưu lại trong các văn tự ở vào thời kỳ chúng phổ biên; mặt khác, sẽ có hàng loạt các từ mới xuất hiện, trong có có không ít từ vay mượn ngôn ngữ Âu châu được dùng cả một thế kỷ, hay ít nhất cũng vài chục năm, đã được Việt hoá và được đưa vào Từ điển Tiếng Việt phổ thông ngang bằng với những từ thuần Việt hay Hán Việt. Những từ ấy dù có xuất xứ nước ngoài nhưng hằng ngày đã được đa số người Việt sử dụng trong giao tiếp và trong văn tự. Hơn nữa, ngoài dân tộc Kinh, nước Việt Nam thống nhất còn có 53 dân tộc anh em khác. Tên đất, tên sông núi, tên các đơn vị hành chính, tên các dân tộc anh em có âm “p” mở đầu từ lâu đã trở thành vốn từ tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ quốc gia, do đó, âm “p” cũng từ lâu đã đi vào hệ thống ngữ âm tiếng Việt. Dù là vô tình hay hữu ý, người biên soạn sách Tiếng Việt lớp Một không dạy phụ âm đầu “p” thì sẽ là một thiếu sót không thể chấp nhận được và không thể nói nó là sách giáo khoa phổ thông! Với việc không dạy phụ âm đầu “p”đứng trước nguyên âm, vô hình trung tác giả cuốn sách đã loại nhiều địa danh quen thuộc như Sa Pa, Phan Xi Păng, Pác Pó, Pò Hèn, Pò Chài… và tên của nhiều địa danh làng xã khác ở miền núi mà tôi không thể liệt kê hết trong khuôn khổ bài viết này. Cũng như vậy, tên một số dân tộc như Pa Cô, Pà Thèn, Pu Péo mặc nhiên bị tác giả sách giáo khoa Tiếng Việt lớp Một (bộ Kết nối tri thức…) coi là từ ngoại lai, không cần dạy. Ngoài ra, âm “p”, chữ “p” còn có trong tên riêng của người dân tộc mà chúng ta chưa thể thống kê hết được, ngoài tên một số vị có chức sắc trong Hội đồng Dân tộc của Quốc hội qua các thời kỳ mà chúng ta đã biết.
Trong lời giải thích của minh, PGS. TS Bùi Mạnh Hùng, Tổng chủ biên kiêm Chủ biên quyển sách này, có cho rằng ông đã dành một trang để in đầy đủ 29 chữ cái trong đó có chữ ‘p” và coi đó là đã dạy chữ “p”, âm “p”. Tôi không tiện dùng lại hình ảnh “dựng hiện trường giả” mà ai đó đã dùng nhưng điều ông Hùng nói là một nguỵ biện không khoa học, nó chẳng khác nào ta mua thật nhiều sách đặt lên bàn mà nói với mọi người rằng ta đã đọc những cuốn sách đó. Ai cũng biết rằng các em học sinh lớp Một còn quá nhỏ để tự học. Các em cần phải có sự hướng dẫn chi tiết của thầy cô, thậm chí phải cầm tay các em dạy từng nét chữ, đặc biệt là học sinh các dân tộc miền núi lần đầu học tiếng phổ thông. Vì vậy, không dạy âm “p”, chữ “p” với tư cách là phụ âm đầu và kí tự ghi phụ âm đầu này trong tiếng Việt hiện đại sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới việc học của học sinh 53 dân tộc anh em. Tác giả cuốn sách, PGS. TS Bùi Mạnh Hùng, cho rằng học sinh vẫn đọc được những từ có “p” là phụ âm đầu, và cho rằng đó là kết quả của cuốn sách. Đó chỉ là sự nhập nhằng trong giải trình mà thôi, vì trên thực tế, như nhiều thầy cô đã phát biểu với báo chí, để các em học sinh đọc được chữ “p”, các thầy cô đã phải chủ động bổ sung một bài dạy âm “p”, chữ “p” cho các em. Điều này càng chứng minh là sách giáo khoa không có bài dạy âm “p”, chữ “p” là một thiếu sót không thể bào chữa.
Có một số vị có học vị học hàm về ngữ văn còn cho rằng sách giáo khoa bây giờ chỉ là tài liệu, thiếu đâu các thầy cô sẽ tìm tài liệu bổ sung. Nhưng vì sao người viết sách lại không chịu sửa sai mà đẩy cái khó cho các thầy giáo, cô giáo như vậy?
Chưa kể trong tình hình dạy học trực tuyến hiện nay, nhiều phụ huynh học sinh cùng tham gia tham gia dạy học cho con em mình. Hầu hết chỉ biết căn cứ vào sách giáo khoa để dạy, làm sao có thể “chủ động” dạy âm “p”, chữ “p” cho các con?
Cần phải khẳng định rằng chủ trương “Một chương trình nhiều sách giáo khoa” là một chủ trương đúng đắn, tạo điều kiện để phụ huynh học sinh, các cơ sở giáo dục được lựa chọn bộ sách mà mình yêu thích, tránh độc quyền trong xuất bản sách giáo khoa. Nhưng điều đó không có nghĩa là các tác giả viết sách giáo khoa được tự do sáng tác theo cảm tính, mà ngược lại, họ phải tuân thủ các nguyên tắc và các yêu cầu tối thiểu trong mỗi phần học của từng môn học. Ví dụ, với học sinh lớp Một, trong phần ÂM, các sách giáo khoa Tiếng Việt phải dạy học sinh biết đọc âm “p”,biết viết chữ “p”và biết ghép “p” với các nguyên âm thành tiếng. Với quy định này thì rõ ràng sách giáo khoa “Tiếng Việt 1, tập một” của ông Bùi Mạnh Hùng không tuân thủ các quy định trong Chương trình giáo dục phổ thông 2018 ban hành kèm theo Thông tư 32/2017 của BGD& ĐT.
Biên soạn sách giáo khoa, nhất là sách giáo khoa tiểu học, là một việc làm rất khó. Ngoài kiến thức về ngữ văn, người viết còn cần có hiểu biết về giáo dục học, tâm lý học, dân tộc học và nhiều lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn khác. Trong quá trình biên soạn có thể có những lỗi nhất định do vô ý, nhưng tuyệt đối không được tự ý xa rời Chương trình giáo dục. Đặc biệt, khi đã có lỗi, có sai sót thì cần phải cầu thị, tiếp tục thực hiện phương châm “Tất cả vì học sinh thân yêu!”
Người viết bài này hy vọng rằng ông Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn là một trong những chuyên gia về khoa học ngữ văn và thấu hiểu những khó khăn trong công tác dạy tiếng phổ thông cho con em đồng bào các dân tộc ít người, sẽ sớm dưa ra các giải pháp kịp thời để thầy và trò ở cấp tiểu học có những cuốn sách giáo khoa đúng theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018 mà BGD& ĐT đã ban hành.
Liên quan vụ "Sgk Tiếng Việt 1 không dạy chữ/âm p"?: Cần nhìn thẳng vào sự thật!
Hiệu trưởng Trường Tiểu học Tô Hiến Thành tiếp tục "đấu" sau khi bên biên soạn và xuất bản sách lên tiếng
Phản hồi ý kiến cho rằng sách giáo khoa (SGK) Tiếng Việt 1 bộ Kết nối tri thức và cuộc sống (gọi tắt là Tiếng Việt 1) không dạy chữ p, Nhà Xuất bản (NXB) Giáo dục Việt Nam cho rằng ông Đào Quốc Vịnh, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Tô Hiến Thành (TP Hà Nội), không phân biệt được âm và chữ. Theo đó, bảng chữ cái trong sách này có đủ 29 chữ cái. Học sinh học và luyện viết chữ p trong các từ như đèn pin, cặp da, cá mập, lốp xe...
NXB Giáo dục nêu quan điểm: Trong tiếng Việt, âm p có thể xuất hiện ở đầu hoặc cuối âm tiết. Trong khi âm cuối p được mặc nhiên thừa nhận dựa trên hàng loạt cứ liệu thực tế như các từ đã được nêu trên thì nhiều nhà ngữ âm học hàng đầu của ngành ngữ âm học Việt Nam không coi tiếng Việt có âm đầu p. Nếu coi tiếng Việt có âm đầu p thì đó không phải là việc hiển nhiên và âm đầu p không phải có vị trí "bình đẳng" như các âm đầu khác. Âm này xuất hiện trong các từ vay mượn như: pi-a-nô/piano, pê-đan/pédal..., các âm tiết được viết liền hoặc có dấu nối.
Ngoài ra, có thể xuất hiện ở một số tên riêng như Sa Pa, Nậm Pì... Trong miêu tả ngữ âm học, tất cả các hiện tượng ngữ âm thuộc từ vay mượn mà chưa Việt hóa hay tên riêng cùng từ tượng thanh, từ cổ... đều thuộc hiện tượng ngữ âm "ngoại biên", không được lấy làm ngữ liệu để miêu tả hệ thống âm vị của một ngôn ngữ.
SGK Tiếng Việt 1 bộ Kết nối tri thức với cuộc sống dạy âm "Ph"
Chiều 25-2, ông Đào Quốc Vịnh cho rằng tác giả cuốn sách đang "không phân biệt được âm "pờ" và chữ p. "Ở mấy trang đầu sách có bảng chữ cái thật. Nhưng đưa bảng chữ cái mà không dạy âm pờ và chữ p ghi âm pờ thì đó không phải là nội dung dạy học. Chủ biên cho rằng trong tiếng Việt âm p (pờ) có thể xuất hiện ở đầu hoặc cuối âm tiết, sách của họ đã dạy âm p ở cuối âm tiết. "Lập luận này làm tôi ngỡ ngàng vì lỗ hổng kiến thức ngôn ngữ học. Họ đã không phân biệt được phụ âm đầu pờ và phụ âm cuối pờ. Đây là hai âm vị hoàn toàn khác nhau" - ông Vịnh lên tiếng.
Hiệu trưởng Trường Tiểu học Tô Hiến Thành nói: "Nếu nói tiếng Việt không có phụ âm đầu "pờ" thì vì sao người Việt Nam bình thường đều phát âm được những từ mở đầu bằng pờ như Pác Bó, Pa-cô, Sa Pa...? Phải khẳng định không thể coi đây là từ ngoại lai chưa Việt hóa. Còn về các từ như pa-nô, pin, pi-a-nô thì thời điểm các từ này nằm ở "ngoại vi" như chủ biên cuốn sách nêu đã quá xa xưa. Hàng chục năm nay, những từ này đã được đưa vào từ điển Tiếng Việt".
Ông cũng cho rằng sách Tiếng Việt lớp 1 dạy chữ p theo giải pháp dạy chữ p giống với Tiếng Việt 1 của Bộ Giáo dục và Đào tạo theo chương trình Tiếng Việt năm 2000 là việc làm tùy tiện, mang tính sao chép nhưng thiếu đồng bộ. Sách Tiếng Việt 1 theo chương trình năm 2000 đã cũ, cần đổi mới nên mới có Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Hơn nữa, trong sách cũ tác giả tuy không dạy âm "pờ" nhưng có dạy chữ p ngay trong SGK và vở tập viết cho học sinh. Điều này, những người viết sách đã không đọc tham khảo.
"Đại diện NXB Giáo dục Việt Nam đã dẫn một số cuốn sách Tiếng Việt khác cũng do NXB này biên soạn và phát hành, cho thấy đều sai giống hệt nhau, hoàn toàn không không dạy phụ âm đầu "pờ". Tuy nhiên, sách Tiếng Việt 1 của các tác giả Lê Phương Nga, Nguyễn Thị Hạnh cũng học theo cuốn Tiếng Việt 1 năm 2002 của bà Đặng Thị Lanh tuy không dạy âm pờ nhưng có dạy chữ p riêng trước khi dạy chữ ph" - ông Vịnh cho biết và nhấn mạnh NXB Giáo dục Việt Nam và các tác giả cần thẳng thắn nhìn vào sự thật. "Nếu giải pháp của các vị đúng thì tại sao quyển Tiếng Việt 1 thuộc bộ Chân trời sáng tạo cũng do PGS-TS Bùi Mạnh Hùng làm tổng chủ biên và do NXB Giáo dục Việt Nam ấn hành lại dạy âm "pờ" và chữ p ngay từ phần Âm (trang 60 tập 1)?" - ông Vịnh nêu ý kiến.
Nên dạy chữ P riêng như những chữ khác Nhiều bạn đọc cho rằng sách giáo khoa Tiếng Việt 1 nên dạy chữ P độc lập như một chữ khác. Trong tuần qua, những thông tin về sách giáo khoa (SGK) Tiếng Việt 1 không dạy chữ P đã nhận được nhiều quan tâm của bạn đọc. Nhiều bạn đọc băn khoăn trên thực tế có những từ như địa danh có...