Trăn trở khi ra trường của sinh viên Y năm cuối
Tháng tới, Nguyễn Thị Hà Trang bước vào năm thứ 6 chuyên ngành bác sĩ đa khoa, với vô vàn câu hỏi về tương lai.
Giữa hàng loạt kỳ thi của năm cuối, những điều mà cô gái 24 tuổi phải suy nghĩ và sớm quyết định là: có nên học bác sĩ nội trú, chọn chuyên ngành gì, vào viện công hay tư…
Năm 2014, Hà Trang đỗ chuyên ngành Bác sĩ đa khoa trường Đại học Y Hà Nội với điểm số 28. Trong hai năm đầu, cô được đào tạo các môn khoa học, đại cương cơ bản. Đến năm thứ ba, Trang đều đặn sáng đi viện, chiều đi học, tối lên giảng đường rồi lại chong đèn ôn tập ở nhà đến gần một giờ sáng hôm sau.
“Học ngành y chớp mắt đã thấy hết ngày nên lúc nào cũng như chạy đua với thời gian”, Trang nói.
Ngành bác sĩ đa khoa phải học 6 năm, sau đó sinh viên y khoa sẽ phải lựa chọn tương lai mình sẽ làm gì tiếp theo, bởi tốt nghiệp đại học xong không có nghĩa họ trở thành bác sĩ điều trị cho bệnh nhân ngay. Đây là thời gian sinh viên tiếp tục học các phác đồ điều trị và tự lên kế hoạch chăm sóc bệnh nhân cụ thể dưới hướng dẫn của giảng viên. Vừa ôn tập để bổ sung kiến thức, Hà Trang còn phải đắn đo, suy nghĩ cho những dự định tương lai.
Ngoài công việc trực, Trang dành thời gian chơi đùa với các em nhỏ tại Viện Nhi Trung ương. Ảnh: Nguyễn Trang
Bác sĩ nội trú là chương trình đào tạo đặc biệt dành cho bác sĩ mới ra trường. Sau 6 năm học đại học y khoa, các bác sĩ mới ra trường, dưới 27 tuổi, tốt nghiệp loại khá trở lên mới đủ điều kiện thi. Ngoài ra, chỉ có sinh viên y khoa chính quy mới được dự thi bác sĩ nội trú và chỉ được thi duy nhất một lần trong đời. Do đó, hầu hết sinh viên năm cuối đều suy nghĩ đến con đường thi nội trú để có thêm cơ hội thực hành. Song, đây là cột mốc khó mà không phải ai cũng vượt qua được. Tỷ lệ chọi một số chuyên ngành cao hơn thi đại học như chuyên ngành sản, ngoại là 1/20.
Hoàn tất chương trình học nội trú kéo dài 3 năm, bác sĩ nội trú được cấp 3 bằng: Bằng bác sĩ chuyên khoa 1, bằng thạc sĩ y khoa và bằng bác sĩ nội trú. Lượng học viên đăng ký đào tạo bác sĩ nội trú đông nên cạnh tranh gay gắt, cơ hội được ở lại các viện lớn để làm việc cũng hẹp dần.
Nguyễn Văn Đức, sinh viên năm thứ năm, Đại học Y Hà Nội, cho rằng hiếm có ngành nghề nào mà áp lực học tập lại lớn như ngành y. Sáu năm học y, ba năm học nội trú, cộng lại gần chục năm tuổi trẻ khiến nhiều người đắn đo khi lựa chọn. Những học viên không học nội trú cần phải thực hành tại cơ sở y tế ít nhất 18 tháng thì mới được cấp chứng chỉ hành nghề.
Video đang HOT
Sinh viên Đại học Y Hà Nội học lâm sàng tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương. Ảnh: Giang Huy
Khó khăn thứ hai của sinh viên chuyên ngành đa khoa là chọn chuyên ngành để theo đuổi. Thông thường, sinh viên đa khoa được học đa số chuyên ngành như nội ngoại, sản, nhi và chuyên ngành lẻ nhỏ như da liễu, ung thư, truyền nhiễm, tâm thần… Ưu điểm là có thể thăm khám tổng quát người bệnh và điều trị xử lý bệnh lý cơ bản nhất nhưng khi ra trường bắt buộc phải chọn một chuyên ngành cụ thể để theo đuổi lâu dài.
“Phải dựa vào khả năng của bản thân và đam mê với chuyên ngành thì mới có quyết định sáng suốt”, Trang kể.
Bên cạnh đó, lương cơ bản bác sĩ mới ra trường khá thấp, chỉ vài triệu đồng một tháng. Đây là nguyên nhân chảy máu chất xám khiến nhiều bác sĩ viện công ồ ạt chuyển sang viện tư. Ở nhiều nước, bác sĩ là nghề nghiệp mang lại thu nhập cao hàng đầu. Tại Mỹ, thu nhập trung bình mỗi năm của bác sĩ phẫu thuật là 230.000 USD, bác sĩ đa khoa khoảng 160.000 USD, cao nhất trong các ngành nghề. Thu nhập của bác sĩ Anh chừng 150.000 USD. Nước thuộc khối ASEAN như Singapore, thu nhập bác sĩ khoảng 30.000 USD.
Tại Việt Nam, hầu hết ở các bệnh viện công, mỗi ngày bác sĩ phải điều trị khoảng 100-150 bệnh nhân, từ 7h sáng đến 17h chiều. Khi làm viện tư, số lượng bệnh nhân mỗi ngày chỉ trên dưới 10 người mà mức thu nhập gấp đôi hoặc gấp ba. Cuộc sống eo hẹp khiến nhiều bác sĩ phải tìm hướng đi khác cho mình.
“Kết thúc 6 năm đèn sách y khoa là một niềm vui lớn với những bác sĩ tương lai, tuy nhiên phía trước còn cả một tương lai khó khăn đang chờ”, Trang chia sẻ.
Thùy An
Theo VNE
GS. Trần Bình Giang và những đóng góp xuất sắc cho ngành Y
GS.TS Trần Bình Giang, Giám đốc BV Hữu nghị Việt Đức với công trình "Nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ của phẫu thuật nội soi trong điều trị một số bệnh ở bụng" giúp cho 16.000 bệnh nhân giảm bớt đau đớn và tai biến khi phẫu thuật vừa được vinh danh là 1 trong 12 cá nhân xuất sắc của giải thương Vinh quang Việt Nam do Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam trao tặng.
Từ chàng trai giỏi Văn thành GS đầu ngành phẫu thuật nội soi
Trong cuộc đời hơn 30 năm công tác trong ngành Y, GS. Trần Bình Giang đã vinh dự nhận được nhiều giải thưởng lớn với các cung bậc cảm xúc khác nhau. Và khi được vinh danh là 1 trong 12 cá nhân tiêu biểu của Vinh quang Việt Nam lần này càng khiến ông tự hào và cảm thấy may mắn khi cơ duyên cuộc đời đưa ông đến với nghề Y.
GS. Trần Bình Giang nhận giải Vinh quang Việt Nam. Ảnh: DN
Vốn học giỏi lại say mê nghiên cứu nên những năm học Đại học Y Hà Nội, GS. Giang đều lọt vào top đầu và là một trong số ít sinh viên được nhận học bổng. Ông cũng là một trong 3 sinh viên của trường được dự Đại hội sinh viên xuất sắc các trường đại học toàn quốc lần đầu tiên năm 1983.
Chứng kiến nỗi đau của sự mất mát và chia xa của gia đình, ông cảm nhận rõ ràng sự khắc nghiệt của cuộc sống, sự bất lực của con người trước bệnh tật, vậy nên, vốn là chàng trai có năng khiếu văn chương, đã từng tham dự kỳ thi học sinh giỏi văn toàn miền Bắc, nhưng chàng trai nghèo quê lúa Thái Bình lại quyết tâm thi đỗ vào Đại học Y Hà Nội với suy nghĩ giản đơn đây là một nghề có thể cứu người, giúp họ giảm bớt nỗi đau thể xác và sinh ly tử biệt.
Theo lời GS. Giang, gia đình ông có đến 9 người con, nhưng 5 người đã mất vì đau ốm bệnh tật. Đặc biệt, câu chuyện buồn của chị gái ông là một nỗi ám ảnh ghê gớm với ông khi chị 5 lần sinh nở nhưng 3 lần phải chứng kiến cảnh con bị sốt cao, co giật và mất. Chưa kể, bản thân ông từ bé cũng là người hay ốm đau và ám ảnh với những mũi tiêm đau đớn mỗi lần phải đến trạm xá.GS. Trần Bình Giang là con út trong một gia đình có 4 anh, em. Tuổi thơ của ông trôi qua vừa êm đềm nhưng cũng nhiều lo lắng bên dòng sông Luộc, tỉnh Thái Bình.
Năm thứ 5, ông đỗ đầu vòng thi Nội trú và chọn môn ngoại để theo học. Và sau khi ra trường, chàng bác sỹ nội trú ấy tiếp tục đứng đầu lớp học tiếng Pháp, để tháng 5/1990 được lựa chọn là người Việt Nam đầu tiên được sang BV danh tiếng COCHIN, Đại học PARIS 6 học tập, nghiên cứu về ghép tạng.
Sau đó, ông tiếp tục được sang học tại Bệnh viện- Trường Đại học NICE-SOPHIA-ANTIPOLIS một Trung tâm nổi tiếng ở Pháp để học chuyên sâu về phẫu thuật nội soi và cũng là người đầu tiên được cấp bằng DIPLOME D,UNIVERSITE về lĩnh vực này. Đây chính là dấu mốc để lĩnh vực phẫu thuật nội soi ở Việt Nam được mở ra và phát triển.
"Cha đẻ" của những kỹ thuật khó
Sau một quá trình được đào tạo dài lâu tại quốc gia có nền y học phát triển, GS. Giang về Việt Nam và muốn triển khai kỹ thuật phẫu thuật nội soi, tuy nhiên, cơ sở vật chất trong nước lúc này rất thiếu thốn, không đáp ứng được các yêu cầu tối thiểu của kỹ thuật.
Đem trăn trở này tâm sự với các GS đầu ngành ngoại khoa lúc đó về dự định của mình và được sự ủng hộ của các "cây đại thụ" trong ngành, GS. Giang đã có thể sắm được chiếc máy phẫu thuật nội soi để thực hiện ý định. Điểm bắt đầu mà chàng bác sỹ tài hoa này chọn lựa là phẫu thuật nội soi tuyến thượng thận.
Nghiên cứu khoa học của GS. Trần Bình Giang về mổ nội soi tuyến thượng thận đã được công bố quốc tế từ 2002. Cho đến nay, đã có hàng nghìn bệnh nhân được phẫu thuật nội soi và BV Việt Đức trở thành một trung tâm lớn trên thế giới về mổ tuyến thượng thận.
Một đóng góp mang ý nghĩa đặc biệt trong y học Việt Nam của GS. Trần Bình Giang là điều trị bảo tồn vỡ các tạng. Theo đó, nếu như trước đây 100% ca chấn thương vỡ gan, lá lách, thận đều phải mổ, thì nhờ có nghiên cứu của GS. Giang mà nay 95% ca chỉ điều trị bảo tồn, giúp người bệnh không bị đau nhiều như mổ, ít mất máu, ít biến chứng, thời gian hồi phục nhanh.
Bên cạnh đó, GS. Giang cũng là người đầu tiên thực hiện phẫu thuật nội soi thay đoạn động mạch chủ bụng, cắt khối tá tuỵ. Đây là những kỹ thuật chỉ một số ít trung tâm lớn trên thế giới có thể thực hiện được.
Ông cũng người đầu tiên thực hiện và xây dựng đội ngũ chuyên sâu của Trung tâm phẫu thuật nội soi, BV Việt đức thực hiên phẫu thuật nội soi điều trị bệnh béo phì, góp phần vào công bố quốc tế về béo phì của châu Á trên tạp chí khoa học chuyên ngành OBESITY.
Hiện nay, Giám đốc BV Việt Đức đang tập trung vào nghiên cứ ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến để phẫu thuật cắt bỏ thành công nhiều ca u đại tràng nằm ở vị trí thấp, rất phức tạp mà nhiều bệnh viện lớn đã trả về, mà vẫn bảo toàn được cơ thắt đại tràng cho bệnh nhân.
Đặc biệt, theo GS. Giang, ngành Y là một khoa học đòi hỏi có sự tiếp thu, học hỏi những tinh hoa kỹ thuật hiện đại của thế giới do vậy việc trang bị ngoại ngữ là yếu tố cần thiết. Bản thân ông có thể nói thành thạo hai thứ tiếng Anh- Pháp và ông hi vọng đội ngũ bác sỹ hiện nay cũng luôn nỗ lực phấn đấu để không bị giới hạn tầm nhìn và góp phần đưa nền Y học Việt Nam tiếp cận với thế giới.
D.Ngân
Theo baohaiquan
Hà Nội yêu cầu các trường không khảo sát để xếp học sinh vào lớp chọn Sở GD&ĐT Hà Nội nghiêm cấm các trường tựu trường trái quy định, tổ chức dạy trước chương trình, nghiêm cấm các trường tổ chức ôn tập, luyện thi, kiểm tra khảo sát để xếp học sinh vào lớp đối với các lớp tuyển sinh đầu cấp. Sở GD&ĐT Hà Nội, vừa có văn bản gửi phòng GD&ĐT các quận huyện, thị xã...