Tiêu chuẩn công nhận giáo sư thấp hơn tiến sĩ
Tiêu chuẩn công nhận giáo sư ở nước ta hiện thấp và còn nhiều bất cập dẫn đến tình trạng những người không giảng dạy, không có bài đăng trên tạp chí ISI/Scopus vẫn được phong.
ảnh minh họa
Năm 2017, 1.226 người được công nhận đạt tiêu chuẩn giáo sư (GS), phó giáo sư (PGS). Đây là con số cao kỷ lục trong 41 năm qua, thậm chí lớn hơn tổng số hai năm 2015, 2016.
Việc số lượng tăng đột biến khiến nhiều người nghi ngại chất lượng của các tân GS, PGS cùng tình trạng được cho là “cố vét” trong năm cuối áp dụng Quyết định 174.
Tiêu chuẩn giáo sư thấp hơn tiến sĩ
Theo tài liệu hướng dẫn xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS năm 2017 do Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước ban hành, ứng viên năm nay được xét duyệt trên cơ sở tiêu chuẩn hợp nhất Quyết định số 174/2008/QĐ-TTg và Quyết định số 20/2012/QĐ-TTg.
Trong đó, việc công nhận chức danh phó giáo sư gồm 4 tiêu chuẩn. Điều đáng nói là không có tiêu chuẩn nào yêu cầu ứng viên phải có bài báo khoa học đăng trên tạp chí ISI/Scopus.
5 tiêu chuẩn công nhận chức danh giáo sư cũng không bao gồm yếu tố bài báo khoa học đăng trên tạp chí ISI/Scopus mà chỉ cần “có đủ công trình khoa học quy đổi theo quy định, trong đó có ít nhất 50% số công trình khoa học quy đổi từ các bài báo khoa học và 25% số công trình khoa học được quy đổi được thực hiện trong 3 năm cuối tính đến thời điểm hết hạn nộp hồ sơ”.
Trong khi đó, danh mục tạp chí được tính điểm bao gồm cả các tạp chí ISI/Scopus và tạp chí trong nước, tạp chí nội bộ trường với mức điểm quy đổi chênh lệch rất ít, từ 1,5 đến 1 điểm.
Rõ ràng, mức chênh lệch này không phù hợp với độ khó khi đăng bài trên tạp chí trong nước và tạp chí ISI/Scopus.
Theo Tiền Phong, xét theo khía cạnh này, tiêu chuẩn công nhận chức danh GS, PGS thấp hơn tiêu chuẩn tiến sĩ theo quy chế do Bộ GD&ĐT ban hành năm 2017.
Để được đăng ký đánh giá luận án, nghiên cứu sinh phải công bố tối thiểu hai bài báo về kết quả nghiên cứu của luận án. Trong đó, một bài đăng trên tạp chí ISI/Scopus hoặc hai báo cáo bằng tiếng nước ngoài trong kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện hoặc 2 bài báo đăng trên tạp chí khoa học nước ngoài có phản biện.
Video đang HOT
Đây là năm cuối cùng áp dụng việc công nhận chức danh GS, PGS theo quyết định 174. Việc công nhận theo tiêu chuẩn mới được cho sẽ khó khăn hơn nhưng tiêu chuẩn vẫn chỉ ở mức xấp xỉ với quy chế đào tạo tiến sĩ.
Cụ thể, theo dự thảo của Bộ GD&ĐT, đến năm 2019, ứng viên thuộc nhóm ngành khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ phải là tác giả chính và đã công bố được ít nhất hai bài báo khoa học trên tạp chí khoa học quốc tế thuộc hệ thống ISI, Scopus. Từ năm 2020, ứng viên phải có thêm ít nhất một bài báo khoa học. Nhóm ngành khoa học xã hội yêu cầu thấp hơn. Ứng viên phó giáo sư chỉ cần ít nhất một bài đăng trên tạp chí ISI/Scopus.
Giáo sư không đi dạy
Khoản 1 Điều 8 Quyết định 174 quy định tiêu chuẩn chung của chức danh GS, PGS là “có đủ tiêu chuẩn của nhà giáo theo quy định của Luật Giáo dục và các văn bản hướng dẫn thực hiện”.
Điều này đồng nghĩa với việc GS, PGS phải thực hiện nhiệm vụ truyền thụ kiến thức cho người khác, dù trên cương vị giảng dạy hay nghiên cứu. Trong khi thực tế, việc công nhận chức danh ở nước ta vẫn còn thiếu minh bạch khi nhiều người không giảng dạy vẫn mang danh GS, PGS.
Ở Mỹ, GS, PGS phải là người truyền thụ kiến thức cho người khác thông qua giảng dạy trực tiếp hoặc hướng dẫn sinh viên, nghiên cứu trong trong phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu. Ảnh: iStock.
TS Lê Viết Khuyến – nguyên Phó vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học, Bộ GD&ĐT – cho rằng PGS, GS chỉ là hư danh, nhiều người không nghiên cứu hay giảng dạy cũng xin được thỉnh giảng cho đủ tiết dạy còn làm hồ sơ. Xét đúng ra, GS, PGS phải là chức vụ giảng dạy tại các trường đại học, cao đẳng, do trường xét duyệt và công nhận dựa trên đánh giá, nhu cầu của trường.
Ví dụ, ở Mỹ, GS là người thuộc cơ sở giáo dục và viện nghiên cứu. Họ phải truyền thụ kiến thức, thông qua việc đứng lớp giảng dạy hoặc hướng dẫn sinh viên, nghiên cứu sinh tại phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu.
Chức vụ này gắn với nhiệm kỳ công tác tại trường, trừ một số trường hợp được giữ lại chức danh khi chuyển sang trường khác vẫn là giảng viên toàn thời gian. Nghỉ hưu đồng nghĩa việc thôi chức vụ GS, PGS. Những người đặc biệt xuất sắc sẽ được phong danh hiệu GS, PGS danh dự khi không còn giảng dạy.
Trong khi đó, ở nước ta, việc tước chức danh GS, PGS chỉ áp dụng với những người bị phát hiện không đủ tiêu chuẩn, sử dụng văn bằng, chứng chỉ bất hợp pháp, bị thu hồi, tước bằng tiến sĩ chuyên môn, bị kỷ luật buộc thôi việc, bị phạt tù giam, án treo. Nếu GS, PGS chủ động nghỉ việc hoặc chuyển công tác sang lĩnh vực không liên quan giảng dạy, nghiên cứu, họ vẫn giữ lại chức danh này.
Quy định hiện hành dẫn đến bất cập giáo sư không phải là người truyền đạt kiến thức mà có thể là doanh nhân, chính trị gia từng đi dạy hoặc xin dạy đủ tiết. Ngoài ra, khi đã được công nhận PGS, GS, họ có thể dừng việc nghiên cứu, giảng dạy, phấn đấu cho đủ bài đăng trên tạp chí khoa học trong nước và quốc tế.
Nhiều GS, PGS không có bài báo ISI/Scopus
Việc nghi ngờ chất lượng GS, PGS được công nhận năm nay hoàn toàn có căn cứ khi số người có bài báo đăng trên tạp chí khoa học thuộc danh mục ISI, Scopus rất thấp.
GS Trần Văn Nhung – Tổng thư ký Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước – khẳng định chất lượng GS, PGS năm nay không thay đổi. Ảnh: P.T.
Theo Tiền Phong, 56 tân GS có bài đăng trên tạp chí ISI/Scopus với tổng số bài đăng là 924 bài. Như vậy, 29 người được công nhận dù không có bài đăng trên ISI/Scopus, chiếm 34% tổng số tân GS năm nay.
Con số này ở PGS còn cao hơn, 53%, tức 609 người không có bài đăng trên tạp chí ISI/Scopus.
GS, PGS không có bài đăng trên tạp chí ISI/Scopus chủ yếu rơi vào các ngành thuộc khoa học xã hội. Cụ thể, 11 ngành trong tổng số 28 ngành có giáo sư được phong lần này không có bài báo ISI/Scopus nào, bao gồm tâm lý, ngôn ngữ, giáo dục học, công nghệ thông tin, luật học…
Về việc phong PGS, 13 người thuộc ngành Luật, 22 người ngành Ngôn ngữ học được công nhận không có bài trên tạp chí ISI/Scopus.
Ngành Khoa học an ninh, Khoa học quân sự chỉ có một người trong tổng 93 người được xét duyệt năm nay có bài đăng trên tạp chí danh tiếng quốc tế. Nhưng số lượng cũng rất hạn chế – một bài.
Ba trong số 32 PGS năm nay của ngành Giáo dục học có bài đăng trên tạp chí ISI/Scopus, số lượng là 4 bài. Con số này ở ngành Tâm lý học là hai trên tổng 17 người với 6 bài đăng. Ngành Triết học – xã hội – chính trị học có 26 phó giáo sư được xét duyệt nhưng chỉ có 2 người có bài báo trên ISI/Scopus.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này nằm ở việc đăng bài của ngànhkhoa học xã hội trên các tạp chí quốc tế nổi tiếng khó hơn so với ngành KHTN. Ngoài ra, quy định cũng không bắt buộc ứng viên ngành này phải có bài đăng trên tạp chí thuộc ISI/Scopus.
Theo Zing
34% GS, 53% PGS không có bài báo khoa học
Cả nước có thêm 1.226 giáo sư, phó giáo sư được xét duyệt năm 2017. Đây là con số kỷ lục khiến nhiều người đặt câu hỏi: Liệu chất lượng giáo sư/phó giáo sư năm nay có tỉ lệ thuận với số lượng này?
GS Phạm Hoàng Hiệp được đánh giá cao khi có tới 37 bài được đăng trên tạp chí ISI/Scopus Ảnh: Phạm Phương
Thống kê cho thấy trong số 85 giáo sư (GS) được xét duyệt lần này, có 56 GS có bài báo đăng trên tạp chí ISI và Scopus với số lượng 924 bài, chiếm gần 66%. Tính trung bình 16,5 bài/GS. Như vậy, khoảng 34% GS được xét duyệt năm 2017 không có bài báo khoa học đăng trên các tạp chí nổi tiếng quốc tế.
Khoa học xã hội rất ít bài báo khoa học
Xét theo ngành thì các GS ngành khoa học tự nhiên có nhiều bài báo ISI/Scopus nhất. GS ngành toán, cũng là GS trẻ nhất năm 2017 là Phạm Hoàng Hiệp có tới 37 bài được đăng trên tạp chí ISI/Scopus. Ngành vật lý có 4 GS được xét duyệt thì có tới 192 bài trên tạp chí ISI/Scopus, trung bình mỗi GS ngành vật lý có 48 bài. Có 11/28 ngành có GS được phong lần này nhưng không có bài báo ISI/Scopus nào như các ngành tâm lý, ngôn ngữ, giáo dục học, công nghệ thông tin, luật học.
Đối với phó giáo sư (PGS), trong số 1.141 người được xét duyệt, có 532 người có bài báo đăng trên các tạp chí nổi tiếng thế giới, chiếm 46,6%. Điều này đồng nghĩa với trên 53% PGS được xét duyệt năm nay không có bài báo khoa học trên các tạp chí ISI/Scopus. Cũng giống như việc xét duyệt GS, những ngành có ít bài báo khoa học chủ yếu thuộc các ngành khoa học xã hội. Ngành luật có 13 người được xét tặng PGS nhưng cũng không có bài báo nào đăng trên tạp chí ISI/Scopus; ngành ngôn ngữ học cả 22 người được xét duyệt PGS cũng không có bài báo trên ISI/Scopus nào. Ngành khoa học an ninh, khoa học quân sự có 93 người được xét đạt chuẩn PGS nhưng chỉ có 1 người có 1 bài báo đăng trên tạp chí quốc tế. Tương tự, ngành giáo dục học có 32 PGS nhưng chỉ 3 người có bài báo khoa học; ngành triết học - xã hội - chính trị học có 26 PGS được xét duyệt nhưng chỉ có 2 người có bài báo trên ISI/Scopus; ngành tâm lý học có 17 PGS, chỉ 2 người có 6 bài báo trên ISI/Scopus...
Trong khi đó, các PGS ở các ngành khoa học tự nhiên có số lượng bài báo ISI/Scopus rất cao như: ngành sinh học, PGS Nguyễn Quảng Trường có 160 bài; ngành vật lý, PGS Nguyễn Thị Hồng Vân có 153 bài, PGS Trần Đăng Thành cũng có tới 110 bài...
PGS-TS Ngô Tứ Thành, Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, cho rằng điệp khúc tăng đột biến vẫn tiếp tục diễn ra nếu giữ cách làm hiện nay. "Sẽ đến một lúc nào đó, tất cả giảng viên tiến sĩ (TS) đều trở thành PGS" - PGS Thành nêu quan điểm.
Cần một cuộc "thay máu"
Trong danh sách các GS/PGS được xét duyệt năm 2017, có nhiều người làm quan chức, không tham gia hoạt động giảng dạy. TS Hoàng Ngọc Vinh, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp - Bộ Giáo dục và Đào tạo, cho rằng thật khó gọi là GS khi anh không còn là thầy cô giảng dạy ĐH. Giá trị chân chính của GS là ở đào tạo, nghiên cứu và phát minh chứ không phải là quan chức của một cơ quan hành chính nào đó.
Theo PGS Ngô Tứ Thành, muốn "thay máu" GS/PGS thì phải có cuộc "thay máu" chính các thành viên trong hội đồng chức danh (HĐCD) GS từ cơ sở, ngành đến nhà nước. Thực tế, hiện nay không ít GS và thành viên các HĐCD GS ngành hiện nay không đạt tiêu chuẩn tác giả chính các bài báo quốc tế.
"Ở một số HĐCDGS ngành, có thành viên hội đồng không có công bố quốc tế ISI, không đủ tiêu chuẩn GS/PGS theo dự thảo mới, trong khi một số giảng viên TS là ứng viên PGS có thừa tiêu chuẩn công bố quốc tế" - PGS Thành cho hay. Ông Thành nhấn mạnh để "thay máu" GS/PGS theo xu hướng hội nhập, việc trước tiên là yêu cầu chọn các GS có công bố quốc tế là thành viên HĐCDGS. Muốn các GS/PGS có công bố quốc tế để đủ tiêu chuẩn trở thành thành viên HĐCDGS, ngoài nỗ lực tự phấn đấu của từng GS/PGS, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường ĐH cần tạo điều kiện về tinh thần và có những chính sách khuyến khích bằng tài chính cho các GS/PGS có công bố quốc tế. Những ngành nào chưa đủ GS có công bố quốc tế để thành lập HĐCDGS thì không nên tổ chức xét chức danh GS/PGS ngành đó. Chỉ khi nào có những giải pháp quyết liệt và đồng bộ như trên mới hy vọng GS/PGS Việt Nam được "thay máu" và đáp ứng được kỳ vọng của người dân.
Tiêu chuẩn PGS thấp hơn tiến sĩ (!?)
Theo Quyết định số 174/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng và Thông tư 16/2009/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo, để trở thành PGS, ứng viên không yêu cầu có công bố quốc tế mà chỉ cần có các bài báo khoa học tiếng Việt được quy đổi thành 6 điểm công trình khoa học. Trong khi đó, theo Thông tư số 08/2017/TT-BGDĐT, đối với những nghiên cứu sinh được tuyển sau năm 2017, điều kiện để được bảo vệ luận án TS là: "đã công bố tối thiểu 2 bài báo về kết quả nghiên cứu của luận án trong đó có 1 bài đăng trên tạp chí khoa học thuộc danh mục các tạp chí ISI/Scopus hoặc đã công bố tối thiểu 2 báo cáo trong kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện". Với quy định này, tiêu chuẩn TS hiện cao hơn tiêu chuẩn PGS!
Theo NLĐ
Công nhận GS, PGS: Cuộc đua đầy may rủi Nhiều chuyên gia nhìn nhận, 'cái dở nhất' của chuyện xét công nhận giáo sư, phó giáo sư ở VN là vàng thau lẫn lộn nên công chúng nhìn vào không biết 'đâu thật đâu dỏm', khiến việc xét công nhận tiêu chuẩn này trở thành một cuộc đua đầy may rủi. ảnh minh họa Như Báo đã có bài phản ánh, 1.226...