Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng nêu 6 vấn đề cần lưu ý để có thành công về tự chủ đại học
Chính phủ cần chỉ đạo định kỳ đánh giá việc thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động các trường đại học công lập, nhất là qua mô hình của Trường Đại học Tôn Đức Thắng.
Theo kế hoạch, sắp tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức hội nghị sơ kết thực hiện tự chủ đại học.
Trước thềm hội nghị này, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam có ghi nhận ý kiến đề xuất của một số chuyên gia.
Hôm nay, phóng viên có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng – nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương, hiện đang là Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam để lắng nghe ý kiến của ông về vấn đề tự chủ đại học.
Phóng viên: Qua thực tiễn, ông đánh giá thế nào về tự chủ đại học thời gian qua?
Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng: Nếu đại học không được tự chủ cũng có nghĩa là chưa có các đại học trưởng thành, nên người ta gọi đó là phổ thông cấp 4. Vì lẽ ấy, nhiều nước họ đã coi tự chủ là một thuộc tính của đại học. Đã gọi đại học thì đương nhiên phải được tự chủ.
Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về tự chủ đại học là rất đúng đắn, một bước tiến bộ rất đáng nói về tư duy quản lý và quản trị, có ý nghĩa đột phá để giáo dục đại học Việt Nam có thể nhanh chóng trưởng thành, đây cũng là một trong những công việc đáng kể nhất trong thời gian qua về thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo theo Nghị quyết 29 của Trung ương đối với giáo dục đại học.
Chủ trương đúng đắn này đã được nêu trong nghị quyết của Trung ương, trong Luật Giáo dục đại học và Chính phủ đã có các nghị định, quyết định để thực hiện chủ trương này, đã cho phép 23 trường thực hiện thí điểm tự chủ.
Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng (ảnh: TDTU)
Qua thời gian thí điểm tự chủ, mặc dù còn rất nhiều trở ngại nhưng nhìn chung các trường đều phát triển tốt. Thực tế đó cho thấy thêm một lần nữa về sự đúng đắn của chủ trương tự chủ.
Tôi cho rằng, đã đến lúc cần tích cực tháo gỡ những vướng mắc, cản trở để tiếp tục mở rộng diện các trường được tự chủ (chỉ trừ các trường thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ Công an vì có những đặc thù riêng, nên chỉ có thể tự chủ có giới hạn do lãnh đạo các Bộ đó quy định).
Khó khăn, trở ngại lớn nhất trong thời gian qua và cho đến hiện nay đối với việc thực hiện tự chủ là cùng một lúc đồng thời sử dụng cả cơ chế chủ quản và cơ chế tự chủ ở ngay các trường được tự chủ, trong khi hai loại cơ chế đó rất khác nhau.
Nói cách khác là cho tự chủ nhưng thực chất vẫn chưa được tự chủ. Nói nặng hơn, đó là sự dập dừng, nửa vời.
Tôi quả quyết kiến nghị rằng, để thực hiện được tự chủ một cách đích thực, thì phải không sử dụng nữa cơ chế chủ quản, không thể thực hiện đồng thời hai loại cơ chế đó như hiện tại, thậm chí cơ chế chủ quản vẫn mạnh hơn, quyền lực hơn, có thể đánh bạt cơ chế tự chủ khi muốn. Cơ chế chủ quản đã xuất xứ và có nguồn gốc từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung mà trong lĩnh vực kinh tế đã có chủ trương xóa bỏ từ 35 năm trước. Nhưng mãi tới nay trong giáo dục cơ bản và thực chất vẫn còn, mặc dù Nghị quyết các đại hội Đảng mấy nhiệm kỳ qua chủ trương phải đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ.
Luật Giáo dục đại học 2018 đã quy định, mở ra vấn đề tự chủ nhưng các trường đại học công lập còn chịu sự chi phối đan xen của nhiều luật khác dẫn tới chồng chéo, chưa đồng bộ trong hệ thống văn bản pháp luật. Theo ông, liệu Chính phủ có nên ban hành một Nghị định riêng cho các trường đã tự chủ không?
Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng: Đúng vậy, một trở ngại “lớn” khác trong quá trình thực hiện tự chủ hiện nay là các quy định của pháp luật không đồng bộ, luật này và luật kia, luật và nghị định, nghị định này và nghị định khác không thống nhất với nhau. So với văn bản này là đúng, với văn bản khác là sai. Cái này cản trở cái kia, phủ định lẫn nhau.
Chính vì vậy, tôi nghĩ rằng, Chính phủ cần ban hành Nghị định riêng áp dụng cho các trường tự chủ. Vấn đề này đã được nhắc đến ở Nghị định 16 cũng như ở các Nghị quyết 89 và Nghị quyết 35 của Chính phủ nhưng cho tới nay một nghị định như vậy vẫn chưa thấy đâu.
Video đang HOT
Đồng thời, Chính phủ cần chỉ đạo định kỳ đánh giá việc thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động các trường đại học công lập, nhất là qua mô hình thí điểm tự chủ đại học của Trường Đại học Tôn Đức Thắng.
Đối với các trường thực hiện thí điểm tự chủ thì việc xem xét đúng sai phải trên cơ sở quyết định cho thí điểm của Chính phủ, chứ không phải theo các quy định chung như đối với tất cả các trường chưa tự chủ.
Bài học từ Trường Đại học Tôn Đức Thắng cho thấy, sự cố này là điển hình của “cơ chế chủ quản dẹp bỏ cơ chế tự chủ” đã được Đảng, Nhà nước chủ trương và đã có luật quy định. Câu chuyện trường Đại học Tôn Đức Thắng khiến không ít trường tự chủ e ngại. Muốn tháo gỡ sự e dè này thì Chính phủ cần có hành động như thế nào, thưa ông?
Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng: Chúng tôi dự báo rằng, nếu không giải quyết được các cản trở nêu trên thì vấn đề tự chủ đại học dù là một chủ trương rất đúng nhưng có thể sẽ đến lúc phá sản, không thành công.
Vì lẽ ấy, tôi đề nghị các cấp có thẩm quyền tăng cường chỉ đạo quyết liệt để thực hiện thành công chủ trương tự chủ (theo tôi, cho đến nay, dù có một số tiến bộ nhưng nhìn chung là chưa thành công). Để bảo đảm chắc chắn thành công, cần phải có sự chỉ đạo từ cấp cao, trước nhất là Thủ tướng Chính phủ và kể cả Thường trực Ban Bí thư, chứ để cho cấp dưới và Bộ Giáo dục và Đào tạo xử lý thì không đủ thẩm quyền để giải quyết nhiều vấn đề vượt tầm.
Để thực hiện thành công chủ trương tự chủ đại học, tôi đề xuất xem xét một số vấn đề sau để có thể nêu thành các quan điểm chỉ đạo như sau:
Thứ nhất, không đánh đồng tự chủ đại học với tự túc tài chính. Nhà nước chẳng những không cắt ngân sách của các trường đại học công tự chủ mà cần tăng thêm hỗ trợ ngân sách cho những trường thực hiện tự chủ, xem đó như là nơi được đầu tư để nâng nhanh chất lượng của những trường này lên. Còn tất nhiên, ngoài phần ngân sách nhà nước thì các trường này còn được huy động nguồn vốn từ xã hội để phát triển giáo dục.
Thứ hai, để trao quyền tự chủ thực sự cho các trường đại học, đặc biệt đối với các trường đại học công lập, cần kiên quyết xóa bỏ cơ chế chủ quản, như đã chỉ ra từ nhiều năm nay tại các Nghị quyết 14, Nghị quyết 89 của Chính phủ và qua chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo Chính phủ tại các hội nghị, hội thảo trong đó có hội thảo về Tự chủ đại học – cơ hội và thách thức do Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam tổ chức năm 2016. Xóa bỏ cơ chế chủ quản thì đương nhiên không còn cơ quan chủ quản. Để có được điều này đòi hỏi cơ quan chủ quản phải tự nguyện từ bỏ quyền lực, sự chỉ huy trực tiếp của mình đối với trường đại học, không biến tướng ẩn danh dưới tên gọi khác là “cơ quan quản lý trực tiếp”.
Khi đó, cơ quan chủ quản trường đại học không còn và thay vào đó có thể là cơ quan chủ quản đầu tư đối với nguồn vốn từ ngân sách nhà nước với chức năng thẩm định, phê duyệt, cấp vốn và kiểm tra giám sát việc thực hiện đầu tư đúng mục đích và có hiệu quả. Cơ quan chủ quản đầu tư không can thiệp vào các hoạt động khác của cơ sở giáo dục đại học đó.
Thứ ba, trao quyền tự chủ cần xác định cụ thể là trao quyền đó cho tập thể Hội đồng trường, chứ không thể trao cho một cá nhân. Hội đồng trường là tổ chức quyền lực cao nhất trong trường, như Nghị quyết 19 đã khẳng định. Vậy nên thành lập hội đồng trường đủ mạnh là khâu đột phá trong tiến trình trao quyền tự chủ cho các trường đại học.
Chừng nào cơ quan chủ quản còn chưa tự nguyện từ bỏ vai trò độc quyền chỉ đạo và quản lý trực tiếp của mình (theo định chế kiểu tập quyền) đối với cơ sở giáo dục đại học thì khi đó chưa có tự chủ thật sự và cũng chưa nên vội vàng thành lập Hội đồng trường một cách hình thức, đồng nghĩa với chưa chuyển qua cơ chế tự chủ.
Những thành viên tham gia Hội đồng trường phải là những người tiêu biểu và là đại diện thực sự cho chủ sở hữu và các bên liên quan chứ không phải chỉ được cơ cấu vào cho đủ thành phần. Đó là nguyên tắc hàng đầu khi thành lập Hội đồng trường.
Thứ tư, tự chủ đương nhiên phải theo quy định của nhà nước nên cần phải có một hệ thống văn bản pháp lý nhất quán phù hợp với chủ trương trao quyền tự chủ cho các trường, không để tình trạng thiếu nhất quán như hiện nay. (Luật Giáo dục đại học sửa đổi thì không còn cơ quan chủ quản, nhưng các luật khác vẫn còn tồn tại cơ quan chủ quản).
Thứ năm, trao quyền tự chủ thì cơ cấu quản trị, quản lý trường đại học cũng phải thay đổi theo, không thể vẫn tiếp tục thực hiện theo thiết chế tập quyền/chủ quản như cũ. Cần thay đổi cơ cấu tổ chức và điều lệ hoạt động của trường phù hợp với cơ chế tự chủ. Phải gắn việc trao quyền tự chủ với nâng cao trách nhiệm giải trình của lãnh đạo nhà trường.
Cuối cùng, Nhà nước cần sớm xây dựng và ban hành Bộ khung quy tắc ứng xử trong quản lý điều hành trường đại học tự chủ giữa Đảng ủy- Hội đồng trường – Ban giám hiệu – Cơ quan quản lý nhà nước. Với vai trò lãnh đạo của Đảng, như Nghị quyết 19 đã chỉ đạo, Bí thư Đảng ủy phải là người có uy tín cao nhất trong trường để xứng đáng được giới thiệu ứng cử Chủ tịch Hội đồng trường.
Mặt khác cần đề nghị với Ban bí thư và Ban Tổ chức Trung ương có chủ trương và quy định về việc đổi mới căn bản phương thức lãnh đạo của Tổ chức Đảng trong nhà trường tự chủ, bảo đảm cho Hội đồng trường là cơ quan quyền lực cao nhất ở đó.
Từ những vấn đề vừa nêu, về phía quản lý nhà nước, ông có kiến nghị gì đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo để thúc đẩy tự chủ đại học hiệu quả trong thời gian tới?
Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng: Tôi cho rằng, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần rà soát những vướng mắc về các quy định của pháp luật cũng như lắng nghe ý kiến thông qua báo chí và của các nhà khoa học, nhà quản lý để đề xuất hướng sửa đổi cụ thể. Xây dựng bộ tiêu chí về tự chủ của trường đại học. Ban hành quy định về quan hệ công tác giữa: cơ quan quản lý nhà nước – Đảng ủy – Hội đồng trường – Ban giám hiệu. Xác định lộ trình thực hiện tích cực việc trao quyền tự chủ cho các trường đại học, không tiến hành ồ ạt, chạy theo phong trào và cũng không trì hoãn kéo dài.
Ban cán sự đảng của Bộ báo cáo cấp trên đề nghị có hướng dẫn thực hiện sự lãnh đạo của tổ chức đảng trong “công tác tổ chức, cán bộ” nhằm khắc phục sự chồng chéo chức năng nhiệm vụ giữa tổ chức đảng và Hội đồng trường.
Trân trọng cảm ơn Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng.
Câu chuyện trường Đại học Tôn Đức Thắng khiến không ít trường tự chủ e ngại
Mục tiêu của tự chủ đại học là để các trường trở thành cái nôi của sáng tạo, tạo ra giá trị xã hội. Muốn vậy phải có cơ chế bảo vệ người tiên phong đổi mới.
Tự chủ giáo dục đại học đã được thực hiện từ năm 2015, sau khi có Nghị quyết 77/NQ-CP của Chính phủ; đặc biệt từ khi có Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (Luật 34) và Nghị định 99/2019/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật 34.
Đây là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, tạo nên sự bứt phá về chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học, tạo diện mạo mới cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Song, thực tế quá trình triển khai vẫn còn nhiều rào cản vướng mắc.
Giáo sư Hoàng Văn Cường cho biết, mục tiêu cuối cùng của tự chủ đại học là đưa các trường trở thành cái nôi của sáng tạo, nghiên cứu. (Ảnh: NVCC)
Xoay quanh vấn đề này, phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trao đổi với Giáo sư - Tiến sĩ Hoàng Văn Cường, đại biểu Quốc hội đoàn Hà Nội, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
Thưa Giáo sư, tự chủ đại học đã cho thấy những tín hiệu tích cực, mở rộng cơ chế để các trường đại học phát triển, nâng cao chất lượng. Tuy nhiên, khi bước vào lộ trình tự chủ, các trường cũng phải đối mặt với rất nhiều áp lực. Thầy có thể chia sẻ về những áp lực mà các trường đại học tự chủ phải đối mặt hiện nay?
Giáo sư Hoàng Văn Cường: Các trường đại học trước đây đều được nhà nước cấp ngân sách, nhưng với những trường đại học thực hiện thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động theo tinh thần Nghị quyết 77/NQ-CP thì họ phải tự lo toàn bộ phần kinh phí hoạt động và không được cấp ngân sách nữa. Điều này buộc các trường phải tìm nhiều giải pháp để có nguồn thu.
Các trường tự chủ phải tự thu, tự lo chi phí, buộc học phí phải tăng lên, nhưng việc tăng học phí lại gặp phải áp lực xã hội vô cùng lớn. Xã hội không cần biết trường có tự chủ hay không, người ta chỉ nghĩ rằng đây là trường đại học công lập của Nhà nước nên tăng học phí thường gặp phải phản ứng của xã hội.
Trong khi các trường tư thục, các cơ sở đào tạo có yếu tố nước ngoài thu mức học phí thế nào cũng không gặp phải rào cản tâm lý xã hội. Các trường công lập, dù là tự chủ đã bị cắt chi phí chi thường xuyên và chi đầu tư, chỉ cần tăng học phí thêm 1 triệu đồng cũng là cả một vấn đề.
Vấn đề nổi cộm của tự chủ đại học hiện nay là cơ chế, chính sách, hành lang pháp lý chưa đồng bộ, nhất quán. Theo ông, điều này đang gây khó khăn như thế nào cho các trường đại học khi thực hiện tự chủ?
Giáo sư Hoàng Văn Cường: Luật pháp đã quy định, tự chủ là quyền tự quyết gắn với tự chịu trách nhiệm, giải trình. Tuy nhiên, vấn đề pháp lý chưa rõ ràng nên khi trường tự quyết lại dễ dẫn tới vi phạm luật.
Đây là điều mâu thuẫn, bất cập lớn nhất hiện nay. Những người đứng đầu cơ sở giáo dục công lập tự chủ vẫn không thể tự quyết vấn đề của mình khi phải tuân theo nhiều văn bản pháp lý chồng chéo, chịu sự kiểm soát của nhiều cơ quan quản lý nhà nước.
Thực tế vấn đề này đã từng diễn ra, Trường Đại học Tôn Đức Thắng là một trong những điển hình về tự chủ. Theo tinh thần tự chủ, tự quyết nên không tương thích với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành còn chưa kịp sửa đổi theo Nghị quyết 19-NQ/TW. Câu chuyện đó trở thành bài học khiến các trường đại học khác bước vào tự chủ với tâm lý lo sợ, e ngại, các trường không dám làm, không dám đổi mới, và như thế thì không còn tự chủ.
Ví dụ, luật pháp đã khẳng định các trường được tự chủ tự quyết định về tài chính và đầu tư mua sắm tài sản. Nhưng khi đầu tư mua sắm bằng nguồn tiền tự thu của trường thì vẫn phải tuân thủ theo quy định Đấu thầu như sử dụng tiền từ ngân sách. Ngay cả khi biết rằng nếu phải tuân thủ qui định đấu thầu, vừa mất nhiều thời gian, vừa phải qua nhiều khâu trung gian tăng chi phí và có thể không mua được đúng những sản phẩm trường muốn mua, thì các trường cũng không thể bỏ qua quy định này để tổ chức mua trực tiếp được sản phẩm ưng ý hơn, thậm chi chi phí rẻ hơn.
Về mặt tài sản,nếu trường muốn tận dụng lúc thời gian chưa dùng hết để cho thuê một tài sản nào đó có khi giá thuê chỉ vài trăm ngàn (ví dụ thuê phòng học một vài buổi) thì theo quy định vẫn phải làm đề án báo cáo cơ quan chủ quản phê duyệt, thuê cơ quan đấu giá để xác định giá thuê và công bố giá thuê trên cổng thông tin quốc gia. Quá trình phức tạp đó làm cho các trường chấp nhận vi phạm nếu mạnh dạn muốn tăng nguồn thu cho trường hoặc bỏ phí không cần tận dụng để lãng phí tài sản.
Luật qui định các trường được tự chủ về tổ chức và nhân sự. Nhưng thực tế, khi trường muốn tuyển dụng, bổ nhiệm cá nhân nào vẫn phải chịu sự chi phối về Luật Viên chức và các quy định của Chính phủ về tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ. Phải tuân thủ quy định này, các trường khó tuyển dụng được những nhân sự xuất sắc vì phải yêu cầu những người giỏi chờ đợi các kỳ tuyển dụng, phải tuân thủ các bước quy trình không thực chất.
Ngoài 3 trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Bách khoa Hà Nội và Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh được Chính phủ cho phép thí điểm ký hợp đồng lao động với giảng viên là người nước ngoài, còn lại, các trường khác dù có tự chủ thì cũng chỉ được ký hợp đồng với giảng viên nước ngoài khi đã được cơ quan quản lý cấp phép.
Những câu chuyện trên chính là minh chứng cho thấy, khi cơ chế còn chưa rõ ràng, thậm chí hệ thống văn bản pháp lý còn chồng chéo và tồn tại nhiều bất cập thì các trường đại học sẽ phải đối diện với rất nhiều khó khan, chưa thể thực hiện được các quyền tự chủ như mong muốn.
Thưa Giáo sư, nói đến tự chủ là nói đến đổi mới, sáng tạo, phát triển. Vậy, khi hành lang pháp lý chưa đồng bộ, chưa nhất quán thì các trường đại học làm sao để có thể tự quyết và tạo được sự bứt phá, sự phát triển mạnh mẽ cho giáo dục đại học?
Giáo sư Hoàng Văn Cường: Trường đại học là cái nôi của nghiên cứu khoa học, mục tiêu cốt lõi của tự chủ đại học là tạo môi trường tự do không ràng buộc, không giới hạn để khuyến khích sáng tạo ra tri thức mới, giá trị mới, những sáng tạo xã hội. Và để thực hiện được mục tiêu đó, các trường phải thực sự được tự chủ, tự do, được tự quyết những vấn đề, hoạt động của mình.
Sáng tạo có nghĩa là họ không đi theo lối cũ, không theo cách làm cũ, không theo khuôn khổ đã vạch ra, họ có thể quyết định triển khai thực hiện một cách làm chưa có trong tiền lệ. Tất nhiên đó phải là những việc làm vì lợi ích của người học, vì sự phát triển của của cơ sở giáo dục đại học đó và không gây phương hại đến tổ chức, cá nhân nào.
Những quy định cứng nhắc bắt buộc người quản lý phải tuân thủ chấp hành như hiện nay chính là hành lang pháp lý vẫn đang "trói buộc" các trường không được quyền sáng tạo, không có cơ hội để bứt phá. Nếu tự quyết để rồi vướng vào vi phạm pháp luật thì chẳng ai còn dám đổi mới, sáng tạo. Cứ như vậy thì biết đến bao giờ các trường đại học có thể trở thành cái nôi của sáng tạo xã hội và tạo ra những giá trị mới?
Và chính những bất cập trong hành lang pháp lý vẫn chưa cởi trói cho tự chủ đại học, nó đang triệt tiêu hết những ý tưởng đổi mới, sáng tạo, bởi khi người ta có ý tưởng nhưng gặp phải tâm lý e ngại, lo sợ không dám thực hiện, triển khai thì tất cả những ý tưởng sáng tạo cũng triệt tiêu.
Chính vì vậy, chúng ta cần phải có cơ chế bảo vệ những người dám tiên phong, dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới. Bảo vệ không phải chỉ là câu khẩu hiệu, lời tuyên bố chung chung mà phải xây dựng tiêu chí cụ thể làm căn cứ những người sáng tạo có chỗ dựa yên tâm khi hành động.
Đối tượng quản lý và chịu tác động của các trường đại học là những người có học thức cao, có đủ khả năng nhận biết và đánh giá những quyết định là phù hợp hay bất thường. Do vậy, nếu có một cơ chế công khai minh bạch và qui định trách nhiệm giải trình thì các trường đại học hoàn toàn có thể tự quyết định những vấn đề của mình một cách hiệu quả nhất mà không cần phải tuân thủ các qui định từ bên ngoài. Với cơ chế công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình thì các quyết định không thể mang tính chủ quan của một cá nhân mà là một quyết định có cơ sở, dựa trên các căn cứ lựa chọn tối ưu nhất được mọi người thừa nhận.
Theo ông, trong hoàn cảnh khi hệ thống văn bản pháp luật chưa đồng bộ, chưa hoàn thiện và còn tồn tại nhiều vướng mắc, khó khăn như vậy thì các trường đại học phải chủ động vượt qua khó khăn đó như thế nào?
Giáo sư Hoàng Văn Cường: Theo tôi, ngay trong nội bộ nhà trường phải có quy định, quy chế rõ ràng về vấn đề quản lý. Phải phân định rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của Hội đồng trường và Ban giám hiệu.
Đó là việc làm cần thiết hiện nay vì pháp luật chưa quy định rõ ràng, thậm chí mỗi cơ sở, mỗi trường vẫn hiểu theo một cách khác nhau. Các trường đại học phải có quy định, quy chế để làm căn cứ, cơ sở cho những quyết định của mình. Những quy định này cũng cần được công khai minh bạch, khi thực hiện, trường có trách nhiệm công khai với xã hội để cơ quan quản lý nhà nước thay mặt xã hội kiểm tra giám sát. Khi đó cơ quan chủ quản không còn đóng vai trò xét duyệt, xin cho mà thực sự đóng vai trò của cơ quản lý, làm nhiệm vụ "thổi còi" nếu hành động của các trường vi phạm luật hoặc không thực hiện đúng các tuyên bố, cam kết với xã hội.
Bên cạnh đó, các trường phải chia sẻ, kết nối với nhau, phải có tiếng nói đồng thuận để các cơ quan quản lý nhà nước hiểu những vấn đề còn tồn tại trong cơ chế hiện nay. Những gì luật pháp quy định thì các trường cần tuân thủ, những gì luật chưa quy định hoặc luật quy định không rõ ràng thì phải có cách xử lý, phải có hướng đi, thể hiện công khai, minh bạch, việc này đòi hỏi nội bộ các trường phải có quyết định và các trường phải bắt tay làm việc cùng nhau.
Thưa Giáo sư, Chính phủ và các cơ quan quản lý cần phải làm gì để có khung pháp lý đủ rộng giúp các trường đại học vững bước trên con đường tự chủ?
Giáo sư Hoàng Văn Cường: Hiện nay, chúng ta đang rất cần một Nghị định Chính phủ về tự chủ đại học, quan trọng nhất là về phân cấp, phân quyền, nêu rõ vai trò của cơ quan chủ quản cũng như các quản lý nhà nước như thế nào, vấn đề công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các trường ra sao?
Phải có hành lang pháp lý đủ rộng, giảm bớt những chồng chéo trong hệ thống văn bản pháp lý đang làm cản trở con đường tự chủ của các trường.
Đặc biệt chúng ta nên thay đổi tư duy tuân thủ, chấp hành bằng tư duy tự quyết, tự chịu trách nhiệm giải trình một cách công khai minh bạch để các trường đại học tự do sáng tạo, đổi mới, bứt phá thành công.
Trường đại học là nơi chứa đựng những tri thức, sáng tạo những giá trị xã hội mới. Hãy để các trường được tự chủ một cách đúng nghĩa, phát triển, sáng tạo và tạo diện mạo mới cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam.
Trân trọng cảm ơn Giáo sư!
Tuyển sinh Đại học 2021: Hàng loạt các trường xét tuyển học bạ, liệu có nảy sinh bất cập? Từ năm 2021, Bộ GD&ĐT giao quyền tự chủ cho các trường Đại học. Do vậy, các phương thức xét tuyển của nhiều trường cũng đa dạng hơn, trong đó có phương thức xét điểm học bạ được rất nhiều trường sử dụng. Tuy nhiên, phương thức này liệu có nảy sinh bất cập? Các trường Top cũng xét học bạ Trong mùa...