Tiến sĩ Nguyễn Thiện Tống: Tôi là người… gieo hạt trước gió!
Mới thôi mà đã một giờ/ Mới thôi mà đã một ngày/ Và mới thôi đã… 40 năm! TS Nguyễn Thiện Tống mở đầu buổi chuyện trò với Dân trí vào một ngày đầu năm 2015…
Thoáng đó, kể từ thời điểm năm 1974 – khi còn là một vị tiến sĩ trẻ từ “trời Tây” trở về, với tấm bằng Tiến sĩ Kỹ thuật hàng không trong tay, đến nay đã tròn 40 năm ông “trụ lại” với quê hương. Cũng ngần ấy thời gian, ông đã trải qua công tác giảng dạy, quản lý ở nhiều lĩnh vực khác nhau, cống hiến trong đa dạng các mảng hoạt động, phần lớn liên quan đến giáo dục, đào tạo…. Song, ông lại chỉ gắn liền với duy nhất một nơi: Đại học Phú Thọ – Sài Gòn cũng là tiền thân của Đại học Bách khoa TPHCM ngày nay.
Chính ngôi trường này, gần 40 năm ông đã “xoáy” cùng dòng chảy lịch sử của đất nước, để không chỉ chứng kiến mà còn có cả những trải nghiệm buồn vui thậm chí có lúc đắng cay… trên con đường khẳng định năng lực, kiên định bản ngã của một trí thức.
Sài Gòn – TPHCM, qua những “mảnh ghép” hồi tưởng
Buổi Giao thời – trong sự hoang mang của không ít bạn bè, đồng nghiệp và cho đến mãi sau này, nhiều người hỏi tôi: “Tại sao đã chọn Ở LẠI?” – Tôi chỉ cười, vì với tôi đúng hơn phải hỏi tại sao lại TRỞ VỀ? – TS Nguyễn Thiện Tống trầm tư nhớ lại…
Tôi đã chọn TRỞ VỀ quê hương ngay trong thời điểm cuộc chiến đang khốc liệt (giữa năm 1974). Vậy hà cớ gì, chưa đầy một năm sau, khi đất nước được hòa bình, quê hương thu về một mối (năm 1975) tôi lại… RA ĐI (?!) – vị tiến sĩ giải thích thêm: Vào thời điểm những năm 1974, khi sở hữu tấm bằng Tiến sĩ ngành Hàng không của “trường Tây” như ông cũng đồng nghĩa với việc đã cầm trong tay thị thực VISA để có thể sinh sống một cách chính danh, với cuộc sống no đủ về vật chất ở nhiều nước trên thế giới. Thế nhưng, gia đình tôi (lúc đó tôi đã có vợ và một cô con gái) vẫn chỉ mong muốn và bằng mọi giá để tôi trở về quê hương.
Bởi, suy cho cùng mình vốn là con dân nước Việt. Tôi biết, mình thuộc về đất nước sinh ra mình và không thể tự cướp mình khỏi quê hương để làm kẻ vong thân sống kiếp lưu đầy – dù sống trong sung túc, ở xứ người…
Khi trở về quê hương vào cuối những năm 1974, có khá nhiều cơ hội nghề nghiệp cho tôi chọn lựa. Nhưng tôi đã quyết định ở lại Sài Gòn và chính thức trở thành Phụ tá Khoa trưởng đặc trách nghiên cứu và phát triển của Đại học Phú Thọ – Sài Gòn vào đầu năm 1975.
Chiều 30/4/1975 – tại Sài Gòn, ngay khi những tiếng súng cuối cùng đã ngừng hẳn, tôi đã có mặt tại sân trường Phú Thọ (nay là ĐH Bách khoa TPHCM) để thực hiện bàn giao – tiếp quản. Sau đó, công việc của tôi tại trường chỉ gián đoạn trong thời gian ngắn. Rồi tôi trở lại công việc giảng dạy cho đến lúc về hưu và thậm chí cho mãi đến bây giờ (trong một vai trò khác) thì tôi hầu như cũng chỉ gắn liền duy nhất tại ngôi trường này – Có lẽ, tôi có duyên tiền định với nó! Vị tiến sĩ hóm hỉnh.
Ấn tượng nhất của tôi về trí thức mới chính là hình ảnh tốt bụng, nhân ái của ông Trần Hồng Quân (cựu Bộ trưởng Bộ GD-ĐT) ông từng giữ vị trí Hiệu trưởng của trường Bách Khoa TPHCM trong những năm đầu tiên sau giải phóng. Tôi cũng có ấn tượng đẹp với sự tiếp đón lịch sự và có thể gọi là đúng theo tinh thần “đồng chí, đồng nghiệp” của một số trí thức ở Hà Nội, khi lần đầu tiên vào cuối năm 1975, tôi là một trong 4 gương mặt đại diện trí thức của phía Nam ra Hà Nội công tác. Tôi ấn tượng, bởi điều này hiếm khi được thể hiện ở ngay chính ngôi trường mà tôi gắn bó gần 40 năm trong suốt cuộc đời làm nghề của mình (!).
40 năm làm nghề và những ĐƯỢC – MẤT
Và nay, khi Sài Gòn – TPHCM tròn 40 năm tuổi, tôi đã bước qua cái tuổi “thất thập cổ lai ly”, cũng đã trải nghiệm qua nhiều thăng trầm trong cuộc sống… – TS Nguyễn Thiện Tống tiếp: Cũng đã có một đồng nghiệp của cô thắc mắc với tôi như điều cô vừa hỏi – “Có bao giờ ông cảm thấy hối tiếc… Và điều gì khiến ông hài lòng nhất trong quyết định trở về và gắn bó với quê hương?” – Xin thưa, có đôi chút ngậm ngùi, có chút buồn nhưng chưa bao giờ hối tiếc về quyết định của mình.
Tôi mạn phép “cải biên” một câu hát của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (cũng là một người bạn của tôi thời vong niên) để trả lời câu hỏi này, đó là “Thương cho mình và Tiếc cho đời”. Thương cho mình vì ôm nhiều hoài bão lớn nhưng lại không có cơ hội để đóng góp như mong ước. Còn tiếc cho đời đã không cho mình cơ hội để đóng góp được nhiều hơn.
Đến 90% thời gian trong sự nghiệp của mình, tôi gắn liền với nghiệp “trồng người”. Tôi vẫn tự thấy mình rất giống logo người ta vẫn thường in trên từ điển Pháp, đó là hình ảnh của một cô gái đang đứng gieo hạt trong gió. Còn tôi, tôi đã và đang “gieo hạt” kiến thức, “tiếp lửa đam mê ” và “tiếp sức tài lực” cho các thế hệ sinh viên. Song, trong công việc này tôi cũng có phần ngậm ngùi khi nhận thấy, mình là người “vô sinh”! Bởi, với học hàm Phó Giáo sư, tôi vẫn chỉ tham gia đào tạo ở bậc đại học mà chưa có cơ hội thể hiện năng lực đào tạo các bậc học cao hơn (thạc sĩ, tiến sĩ…). Và ẩn sau ngậm ngùi ấy là cả một câu chuyện dài, phần nào chịu ảnh hưởng của lịch sử dân tộc…
Còn hài lòng ư? Tôi hài lòng với quyết định trở về và trụ lại với quê hương. Tôi đã biết tận dụng những cơ hội đó để đóng góp cho quê hương nhiều hơn. Những đóng góp đó rất cụ thể: Tôi là “kiến trúc sư trưởng” là người mở ngành học Kỹ thuật Hàng không, tuyển sinh và đào tạo khóa đầu tiên vào năm 1996, tại Đại học Bách khoa TPHCM. Cùng với việc “thiết kế” ngành học là khoảng thời gian 12 năm tôi làm việc ở vị trí Chủ nhiệm bộ môn (1996-2007). Giai đoạn này tôi hài lòng vì được lãnh đạo công nhận và được thể hiện năng lực bản thân theo đúng lĩnh vực mình đam mê và được đào tạo bài bản.
Với vị trí của mình, tôi đã có cơ hội “tiếp sức, tiếp lửa” thông qua việc giảng dạy trực tiếp đồng thời là người kêu gọi nguồn lực, tài trợ học bổng cho hàng chục thế hệ sinh viên ngành Kỹ thuật Hàng không được đào tạo tại ĐH Bách khoa TPHCM cũng như tiếp tục được du học ở các nước Âu, Mỹ…
Tiếp đến, điều khiến tôi rất vui, đó chính là tôi luôn là “người mở đường” – Tôi là một trong những người khởi xướng Chương trình học bổng Vì ngày mai phát triển. Tiền thân của chương trình học bổng này là Chương trình hỗ trợ tài năng khoa học trẻ Việt Nam, với 12 suất học bổng đầu tiên dành cho học sinh giỏi lớp 12 tại TPHCM (không phân biệt gia cảnh), do Hội Khoa học Kỹ thuật gia Việt Nam tại Úc (thông qua tôi) tài trợ. Và 12 suất học bổng này chính là những suất học bổng đầu tiên của Chương trình “Vì ngày mai phát triển” lần thứ nhất. Gần đây nhất (năm 2014) tôi đã kêu gọi nguồn lực từ các bạn đồng học cũng như các thế hệ học trò của tôi ở Úc, Mỹ… để tạo được nguồn quỹ gần nửa tỷ đồng dành hỗ trợ, tiếp sức cho 91 sinh viên nghèo ở Thừa Thiên – Huế…
Video đang HOT
Lạc quan với Sài Gòn – TPHCM ở độ tuổi 40 “cái xuân xanh”!
Như quy luật của tạo hóa, của đất trời…, mỗi mùa xuân tới vạn vật như tươi xanh hơn, tràn đầy sức sống hơn… Với tôi, mùa xuân này – khi Sài Gòn-TPHCM tròn 40 năm xây dựng và phát triển với khá nhiều những công trình mang dấu ấn, thì tôi cũng đã bước vào tuổi thất thập. Tuy tuổi đã “xế chiều” nhưng tôi vẫn rất lạc quan và cảm thấy yêu đời hơn mỗi độ Xuân về.
Đặc biệt, với nền giáo dục nước nhà, tôi vẫn mong ước được nhìn thấy những thành quả từ sự đổi mới. Để những đổi mới ấy đến nhanh hơn, gần hơn thì giáo dục cần có “TRIẾT LÝ GIÁO DỤC”. Theo đó, với từng cá thể, giáo dục cần chú trọng đến việc trang bị lý tưởng và khả năng tư duy độc lập của mỗi học sinh, sinh viên… Còn ở tầm vĩ mô, “mấu chốt” thành công của quyết sách giáo dục, hiện không còn nằm ở Ý TƯỞNG nữa, bởi cũng đã có rất nhiều ý kiến đóng góp, đề xuất, chìa khóa thành công của một quyết sách đúng đắn vào thời điểm hiện nay phụ thuộc vào phương cách quản trị nguồn lực sao cho hợp lý. Việc này đòi hỏi tiêu chỉ sử dụng nhân lực của “người cầm chịch” phải cởi mở hơn để có thể quy tập mọi nguồn lực tri thức để biến thành sức mạnh tri thức toàn diện…
Tôi vốn là dân khoa học, nên tôi tin rằng lượng biến sẽ kéo theo chất biến! Và tôi mong những quyết sách của sự nghiệp “trồng người” sẽ thay đổi mạnh mẽ, quyết liệt sẽ giúp nguồn tri thức Việt được khơi dậy và phát triển ấn tượng hơn, góp phần hiệu quả vào công cuộc xây dựng, phát triển cho sự phồn thịnh của đất nước.
Tiến sĩ Nguyễn Thiện Tống là một trong 25 sinh viên Việt Nam đầu tiên nhận học bổng Colombo Plan du học tại Úc vào cuối năm 1965. Ông là người Việt Nam đầu tiên và trẻ nhất, vào năm 1974 đã sở hữu bằng tiến sĩ ngành Kỹ thuật Hàng không được đào tạo ở Viện Đại học Sydney.
Năm 1995, ông tốt nghiệp Quản trị hành chính công tại trường Kennedy thuộc Viện đại học Harvard – Hoa Kỳ (Bằng II). Với bằng cấp này ông đã tham gia giảng dạy Chương trình Fulbright tại Việt Nam.
Vào những năm đầu của thập niên 90 cũng như nhiều đợt lấy ý kiến xây dựng cho Luật Giáo dục Việt Nam sau này, ông đều nằm trong số những chuyên gia giáo dục uy tín được mời đóng góp ý kiến.
Việt Khuê
Theo Dantri
Tiến sĩ trẻ bỏ lương 2 tỷ/năm về VN: Chưa bao giờ tiếc nuối
Trần Vinh Dự là tác giả của bài diễn văn gây chấn động trong lễ tốt nghiệp trường CĐ nghề Việt Mỹ. Ông đã từ bỏ mức lương 2 tỷ đồng/năm tại nước ngoài để về Việt Nam làm việc.
TS Trần Vinh Dự (sinh năm 1977) hiện là Chủ tịch trường CĐ Nghề Việt Mỹ (VATC) và Chủ tịch trung tâm quốc tế của ĐG Broward College (Mỹ) tại Việt Nam. Bài diễn văn của ông nói về ba điều tâm đắc: Thất bại, hữu hạn của cuộc đời, sự thành đạt và hạnh phúc được lan tỏa rộng rãi trong đầu năm 2015, có sức ảnh hưởng lớn đối với thế hệ trẻ.
Cách quản lý cuộc sống quan trọng hơn tiền bạc
- Trong khi người ta nói nhiều về chảy máu chất xám, khi 12/13 nhà vô địch Olympia không về nước, tại sao ông lại lựa chọn Việt Nam? Đã khi nào ông hối hận với quyết định này chưa?
- Câu chuyện chảy máu chất xám đúng là câu chuyện lớn ở Việt Nam. Theo tôi, chuyện chảy máu này cũng không nên nhấn mạnh quá, nhất là trong môi trường mà lực lượng lao động và vốn tự do di chuyển trong thế giới toàn cầu như hiện nay.
Nhìn rộng ra thì một quốc gia cũng nên quan ngại khi các thành phần ưu tú của dân tộc không muốn tìm kiếm cơ hội phát triển tại chính đất nước mình. Đây là vấn đề môi trường kinh doanh, môi trường xã hội, và môi trường chính sách, mà nhà nước chắc chắn phải lưu ý.
TS Trần Vinh Dự - tác giả của bài diễn văn gây sốt.
Riêng tôi thì từ khi sang Mỹ học rồi đi làm, tôi luôn luôn muốn quay về. Câu chuyện quay về của tôi không phải là quyết định bộc phát, mà nó luôn là một phần trong con người tôi.
Tôi chưa bao giờ cảm thấy hối tiếc về quyết định này. Tôi là người Việt Nam, và dù hay hoặc dở thì tôi vẫn muốn được sống, làm việc, trải nghiệm, già đi, và rời khỏi thế giới này với tư cách là người Việt, sống tại đất nước mình, trong nền văn hóa của mình, giữa những người thân và bạn bè của mình.
- Ông đã từng tâm sự trong bài phát biểu: "Khi tôi tốt nghiệp đầu năm 2007, tôi là một trong 3 nghiên cứu sinh được đánh giá cao nhất trong số khoảng gần 20 tiến sĩ Kinh tế tốt nghiệp năm đó của trường. Ngay từ trước khi ra trường, tôi đã có việc làm tại Mỹ với mức lương khởi đầu 6 con số, tức là hơn 100 nghìn USD/năm". Vậy khi về Việt Nam mức lương hiện tại của ông thế nào?
- Đã từ lâu tôi không còn đi làm thuê nữa, vì thế tôi không còn khái niệm về lương. Về thu nhập có những năm tốt, nhưng đi đầu tư kinh doanh thì cũng có nhiều rủi ro, và tôi cũng đã mất nhiều tiền. Cho đến bây giờ thì cái thu được nhiều nhất đối với tôi là những trải nghiệm rất thú vị và một cuộc sống đúng với ý mình muốn. Còn về tài chính thì tôi chưa bao giờ giàu.
- Đối với ông, tiền bạc chiếm bao nhiêu phần trăm hạnh phúc?
- Có cách nào đo đếm được câu chuyện này không? Nói hạnh phúc mà không cần đến tiền thì có lẽ không đúng. Chúng ta đều cần đến tiền để tồn tại, để chăm lo cho gia đình và nuôi dạy con cái. Thế nhưng nếu vì tiền mà phải sống theo cách mình không muốn, làm việc mà mình không thực sự đam mê, thì cũng khó có thể hạnh phúc được.
Tiền bạc, theo tôi, chỉ quan trọng ở mức nó đảm bảo lối sống mà bạn chọn, mà lối sống thì có thể rất tốn kém, hoặc cũng có thể rất tiết kiệm thôi.
Giờ nhìn lại thì tôi đã có những lúc rất nghèo, phải đi dạy gia sư, đi làm thêm, nhưng những lúc đó tôi cũng rất hạnh phúc.
Thế nên tôi cho rằng điều quan trọng là cách quản lý cuộc sống của mình, chứ không phải chuyện tiền nhiều hay ít.
Đáng sợ nhất là sự tuyệt vọng
- Ông là một người dám chấp nhận thất bại. Từng nhắc đến câu chuyện làm giảng viên 400 nghìn đồng/tháng, 6 tháng rải hồ sơ xin việc. Vậy nguyên nhân ở đây do đãi ngộ không tốt hay do ông chưa đủ năng lực?
- Làm giảng viên đại học công lập ở Việt Nam thì bậc lương là do nhà nước quy định và một người mới ra trường khi đó thì chỉ có vậy. Dĩ nhiên là khi đó tôi cũng đi làm thêm nhiều và không phụ thuộc vào lương cứng của trường trả.
Còn chuyện xin việc hoài không được thì đương nhiên là khi đó tôi chưa đủ kinh nghiệm và năng lực làm việc thực tế.
- Những năm học tiến sĩ ông từng túng quẫn nghĩ đến việc tự sát... Ông có thể kể thêm về thời gian khủng hoảng này? Đây có phải là thời gian tồi tệ nhất?
- Có những giai đoạn tồi tệ hơn thế nhiều. Nhưng tại thời điểm đó tôi còn trẻ, và tôi nghĩ rằng nếu không nghiên cứu thành công luận án thì mọi thứ sẽ sụp đổ. Còn sau này thì tôi hiểu là dù mọi chuyện có tệ đến thế nào thì cũng không phải ngày tận tế, vì vậy tôi không còn tuyệt vọng.
Câu chuyện của tôi khi đang làm nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Mỹ cũng là chuyện phổ biến của nhiều du học sinh nước ngoài, khi tương lai của họ dựa vào học bổng. Học bổng thì không kéo dài mãi mà có hạn định và dựa vào thành tích nghiên cứu - học tập. Vì vậy áp lực về thời gian, học tập, nghiên cứu là rất lớn.
Ông Trần Vinh Dự nhận bằng tiến sĩ năm 2007 tại ĐH Texas tại Austin.
- Là một người đã đi qua cả sự thất bại, nếm trải cảm giác thành công, điều gì khiến ông sợ nhất?
- Tôi sợ nhất là mất động lực khi rơi vào trạng thái tuyệt vọng. Nó giống như mình không còn lý do để tiếp tục cố gắng nữa, vì mọi cố gắng đều dường như vô ích. Cảm giác đó thực sự đáng sợ.
- Điều gì làm nên một Trần Vinh Dự riêng, không lẫn với bất kỳ một cá nhân khác?
- Tôi nghĩ chúng ta sinh ra không có ai là giống nhau cả. Mỗi chúng ta đều được tạo hóa cho những nét riêng. Chỉ có điều là trong cuộc sống hàng ngày khi chúng ta lớn lên và trưởng thành, xã hội dạy chúng ta phải theo những lề thói chung của cuộc đời. Nhiều khi chúng ta "học giỏi" quá và đánh mất mình trong cái chung đó.
Vì thế, tôi vẫn tin rằng xã hội nên khuyến khích sự khác biệt, để mọi người có cơ hội phát huy cái riêng của mình, chứ không phải ai cũng vo tròn như những viên bi với hình giáng, màu sắc, và kích thước giống hệt nhau.
Mong muốn tạo nên đột phá mới trong giáo dục
- Từ những bài học về việc làm của chính bản thân mình, ông tạo nên sự khác biệt nào của sinh viên trường CĐ Nghề Việt Mỹ với những sinh viên trường khác về cơ hội có việc làm sau khi ra trường?
- Tôi phải chia sẻ rất thật là cho đến khi đầu tư vào giáo dục tôi mới hiểu sự khó khăn của việc làm giáo dục ở Việt Nam như thế nào. Thực sự đây là "cuộc chiến" khó nhất mà tôi đã từng có cơ hội tham gia.
Nếu các em không tận dụng từng ngày từng giờ khi còn trẻ, còn ngồi trên ghế nhà trường, sau này các em sẽ phải trả giá cao hơn rất nhiều. Tôi cố gắng truyền đạt kinh nghiệm này cho các em, nhưng thực sự không dễ dàng. Nhiều thứ chỉ có cách duy nhất để học là qua trải nghiệm, chứ không phải qua các bài giảng lý thuyết hay các bài phát biểu cảm động.
TS trẻ trong buổi lễ tốt nghiệp sinh viên của trường.
Vì thế, tại trường, tôi quyết tâm chuyển hướng toàn bộ sang việc dạy bằng trải nghiệm. Chúng tôi cố gắng tạo nhiều thách thức thực tế cho các em, đưa ra các tình huống giả lập giống như môi trường thật để các em học, đưa các em tiếp cận và làm việc trong các môi trường làm việc thực tế ở các doanh nghiệp lớn để các em va vấp.
- Tham vọng của ông trong giáo dục? Ông đang thực hiện tham vọng này như thế nào?
- Chúng ta đã nói đến cải cách giáo dục từ rất lâu, nhưng rõ ràng là nguồn lực con người mà chúng ta đào tạo ra còn yếu so với nhu cầu thực tế của thị trường. Đây đang là nút cổ chai lớn nhất cho sự phát triển bền vững của Việt Nam sau này.
- Chúng ta luôn thắc mắc tại sao kinh tế phát triển chậm, không bằng mấy nước láng giềng của mình. Có nhiều lý do, nhưng quan trọng nhất là con người của chúng ta. Nói thẳng ra, chúng ta hay khoe có tố chất tốt, nhưng thực tế chúng ta lười biếng và thiếu sáng tạo.
Mong muốn của chúng tôi là tạo ra một sự đột phá mới trong giáo dục. Muốn như vậy thì phải làm được cả hai yếu tố cùng một lúc - chất lượng thực sự tốt và chi phí thực sự rẻ. Chỉ tốt mà không rẻ thì sẽ chỉ giúp tầng lớp tinh hoa, những người vốn đã có nhiều lợi thế để tận hưởng các môi trường giáo dục tốt nhất ở Việt Nam và nước ngoài, và bỏ qua tầng lớp đại chúng.
Giấc mơ du học từ trước đến giờ vẫn là giấc mơ của những người ưu tú nhất, hoặc giàu nhất, còn chúng tôi muốn biến giấc mơ này thành giấc mơ của bất kỳ học sinh nào có quyết tâm. Và chúng tôi đang làm được như vậy.
TS Trần Vinh Dự hiện là TGĐ của công ty tài chính TNK Capital và cổ đông sáng lập của tập đoàn giáo dục ISmart Education tại TP HCM.
Ông tốt nghiệp cử nhân kinh tế (1999) và làm giảng viên ĐH Kinh tế, thuộc ĐH Quốc Gia Hà Nội (1999-2001).
Ông từng tốt nghiệp thạc sĩ kinh tế (2003) và tiến sĩ kinh tế (2007) tại ĐH Texas tại Austin (University of Texas at Austin).
Quá trình học và nghiên cứu của ông tại đây được tài trợ toàn bộ bởi quỹ học bổng Harvard Yenching, thuộc ĐH Harvard.
Theo Zing
Một mô hình đại học cần hoàn thiện và nhân rộng Làm việc với Trường ĐH Tôn Đức Thắng, điều mà Thủ tướng ghi nhận và đánh giá cao là trong 17 năm qua, từ một trường đại học thiếu cơ sở vật chất, thiếu tiền, thiếu nhân lực, thiếu tài liệu giảng dạy, trở thành một trường lớn, có cơ sở vật chất hiện đại, có uy tín khoa học và chất lượng...