Thước đo giáo dục ĐH là sinh viên khởi nghiệp thành công
Làm việc với ĐH Quốc gia Hà Nội, Thủ tướng cho rằng một trong những thước đo thành công của trường đại học là bao nhiêu sinh viên khởi nghiệp và thành danh từ mái trường này.
Sáng 16/10, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc làm việc với lãnh đạo ĐH Quốc gia Hà Nội.
Thủ tướng cho rằng Đảng, Nhà nước xác định cùng với khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo phải đi trước một bước để tạo đột phá trong phát triển kinh tế – xã hội.
“Hôm qua, tại hội nghị toàn quốc về giảm nghèo bền vững, tôi đã nói rằng nếu tất cả con em chúng ta đều cắp sách đến trường, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số thì tương lai không xa sẽ giảm nghèo tốt và bền vững. Ngược lại, nếu con em tiếp tục bỏ học với tỷ lệ cao như ở vùng cao, vùng sâu thì sẽ tiếp tục đói nghèo”, Thủ tướng nhấn mạnh vị trí mang tính đột phá của giáo dục đào tạo.
Trong giáo dục đào tạo, bậc đại học gần với đầu ra, gần với thị trường lao động và mục đích của giáo dục đại học là cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội.
“Vì vậy, tôi đề nghị giáo dục đại học nói chung và đối với ĐH Quốc gia Hà Nội nói riêng cần phải đổi mới mạnh mẽ nhất, cùng với các giải pháp quyết liệt nhất”, Thủ tướng yêu cầu.
Danh tiếng trường đại học đến từ sinh viên khởi nghiệp thành công
Thủ tướng đánh giá thời gian qua, ĐH Quốc gia Hà Nội đã khẳng định được vị thế đứng đầu trong hệ thống giáo dục đại học cả nước. Vì thế, trường cần quán triệt sâu sắc hơn Nghị quyết 29 của Đảng về đổi mới giáo dục đào tạo.
“Tôi nhớ có đêm hồi làm phó thủ tướng, tôi có gọi điện cho anh Nhạ (Bộ trưởng GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ) nói các anh đã làm một việc tốt là tổ chức kỳ thi đánh giá năng lực phục vụ công tác tuyển sinh đại học. Tôi thấy đây là điểm mới mà các đồng chí đã làm”, Thủ tướng nói và đánh giá cao việc ĐH Quốc gia Hà Nội đi tiên phong về kiểm định chất lượng đại học.
Thủ tướng cũng đánh giá cao công tác nghiên cứu khoa học của trường, số lượng đề tài tăng lên, đạt một số giải thưởng quốc gia, quốc tế, có nhiều bài báo công bố quốc tế gần đây.
Về phương hướng thời gian tới, Thủ tướng nhấn mạnh một trường đại học lớn như ĐH Quốc gia Hà Nội là một phần của hệ sinh thái quốc gia khởi nghiệp, phải là nơi khuyến khích, ươm trồng những tài năng khởi nghiệp, góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ sinh thái khởi nghiệp.
Là trường đại học quốc gia, ĐH Quốc gia Hà Nội phải đi tiên phong trong việc xây dựng quốc gia khởi nghiệp, tương xứng với lịch sử nhà trường.
Bày tỏ ưu tư, trăn trở về tình trạng nhiều cử nhân, kỹ sư ra trường còn thất nghiệp, Thủ tướng cho rằng chất lượng đào tạo nói chung và của ĐH Quốc gia Hà Nội nói riêng chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của xã hội và nền kinh tế.
Do đó, một trong những thước đo thành công của trường đại học là bao nhiêu sinh viên khởi nghiệp và thành danh từ mái trường này, chứ không chỉ bao nhiêu sinh viên kiếm được việc làm.
Cho rằng chính điều này tạo nên danh tiếng của các trường nổi tiếng, Thủ tướng nêu ví dụ về trường Đại học Tokyo, Nhật Bản, trường có khoảng 240 công ty khởi nghiệp. Trong đó, 16 công ty đã lên sàn chứng khoán với mức vốn hóa thị trường đạt khoảng 8 tỷ USD. Hiện nay, hệ thống giáo dục đại học ở Nhật rất quan tâm khởi nghiệp.
Thủ tướng đề nghị ĐH Quốc gia Hà Nội phải xem khởi nghiệp là một phần của tầm nhìn trong phát triển, trong tôn chỉ giáo dục đào tạo của mình. Ảnh: Quang Hiếu/Chinhphu.vn.
Video đang HOT
Khởi nghiệp phải là một phần của tầm nhìn phát triển
Cho biết đã vào đọc trang web của ĐH Quốc gia Hà Nội trước khi làm việc với lãnh đạo trường, Thủ tướng nhắc lại lời phát biểu của của cố giáo sư Nguyễn Văn Huyên, vị Bộ trưởng Giáo dục đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại lễ khai giảng ĐH Quốc gia Hà Nội vào ngày 15/11/1945 rằng: “Nền đại học mới này là một lực lượng mạnh trong những lực lượng chiến đấu của dân tộc Việt Nam.
Chúng tôi muốn nó là một thành lũy để trường kỳ kháng chiến phục hồi hoàn toàn lãnh thổ và giải phóng tinh thần cho dân tộc chúng tôi là một dân tộc văn hiến có ngoài nghìn năm lịch sử độc lập và đã tự gây nên được một nền văn minh đặc sắc trên ven bể Thái Bình Dương này”.
Còn hiện nay, theo Thủ tướng, một trong những lực lượng chiến đấu của dân tộc Việt Nam chính là nhà khởi nghiệp. ĐH Quốc gia Hà Nội có vai trò, sứ mệnh trong việc xây dựng và phát triển lực lượng khởi nghiệp cho quốc gia hiện tại và tương lai nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng quốc gia khởi nghiệp.
Để hiện thực hóa nhiệm vụ này, ĐH Quốc gia Hà Nội phải xem khởi nghiệp là một phần của tầm nhìn trong phát triển, trong tôn chỉ giáo dục đào tạo của mình, trở thành văn hóa, tấm gương người tốt việc tốt trong đội ngũ giảng viên, sinh viên ĐH Quốc gia Hà Nội.
Tri thức đi vào thực tiễn
“Tôi nhất trí với sứ mệnh mà các đồng chí nêu ra, đăng trên Website của mình là trở thành đại học định hướng nghiên cứu, đa ngành, đa lĩnh vực có tính hội nhập cao, trong đó, một số trường đại học, viện nghiên cứu thành viên thuộc các lĩnh vực khoa học cơ bản, công nghệ cao và kinh tế-xã hội mũi nhọn đạt trình độ tiên tiến châu Á”, Thủ tướng nói.
Để tầm nhìn này thành hiện thực, Thủ tướng cho rằng cần cụ thể hóa thành 3 mục tiêu.
Thứ nhất, ĐH Quốc gia Hà Nội phải gắn nghiên cứu với ứng dụng thực tế, mà một trong những thước đo quan trọng là khởi nghiệp. Phải có trách nhiệm với câu hỏi bao nhiêu nhà doanh nghiệp đã thành công từ các nghiên cứu đó.
Thứ hai, ĐH Quốc gia Hà Nội muốn có tính hội nhập cao thì cần hiểu doanh nghiệp muốn gì, nền kinh tế cần gì, phải hiểu rõ các yêu cầu đặt ra cho doanh nghiệp, cho nền kinh tế để có thể tham gia thành công vào các chuỗi giá trị, mạng sản xuất toàn cầu.
Những yêu cầu đó có thể là trách nhiệm đào tạo nguồn nhân lực phải đáp ứng tiêu chuẩn gì, các sản phẩm, kết quả nghiên cứu của trường đem lại giá trị, góp vào xu hướng nào?
Thứ ba, ĐH Quốc gia Hà Nội muốn các lĩnh vực khoa học cơ bản, công nghệ cao và kinh tế – xã hội mũi nhọn đạt trình độ tiên tiến châu Á như trên thì phải biết người biết ta, phải bắt kịp, thậm chí có những ý tưởng, đề án đi trước xu hướng tiến bộ chung về công nghệ, kinh tế – xã hội của châu Á và thế giới.
“Tôi nghĩ thực hiện 3 nội hàm nêu trên thì ĐH Quốc gia Hà Nội sẽ đạt được khẩu hiệu hành động do chính trường đề ra, là ‘Đạt đỉnh cao dựa vào tri thức’. Đây là câu của các đồng chí đăng trên Website. Nay tôi thêm câu thứ hai nữa là Tri thức đó phải đi vào thực tiễn”, Thủ tướng nói trong tiếng vỗ tay các lãnh đạo ĐH Quốc gia Hà Nội.
Thủ tướng nhấn mạnh, nhà trường phải liên kết với doanh nghiệp, hoạt động nghiên cứu phải gắn với thị trường, phải thu hút các nguồn lực đầu tư, nâng cao chất lượng cơ sở vật chất của trường.
Tại cuộc làm việc, Thủ tướng cũng đã cho ý kiến về một số kiến nghị cụ thể của ĐH Quốc gia Hà Nội với tinh thần tạo điều kiện để trường đại học này phát triển hơn nữa.
Theo Đức Tuân / Chinhphu.vn
'ĐH Bắc Kinh có tàu Thần Châu, ĐH Quốc gia Hà Nội có gì?'
"ĐH Bắc Kinh của Trung Quốc có tàu Thần Châu, vậy ĐH Quôc gia Hà Nội có gì không? Chúng ta phải so sánh như vậy mới dám nghĩ, dám làm...", GS Nguyễn Hữu Đức noi.
"Hiện tại, chúng ta chỉ loay hoay với mấy trăm bài báo ISI đã chết rồi còn làm gì được nữa", GS Nguyễn Hữu Đức, Phó giám đốc ĐH Quốc gia Hà Nội nêu vấn đề như vậy tại tọa đàm về chủ đề công bố quốc tế trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn (KHXH&NV) do ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn tổ chức hôm 20/9 .
Các ý kiến của các nhà khoa học thuộc cả lĩnh vực khoa học tự nhiên (KHTN) và KHXH&NV đều nhất trí rằng thực tế, công bố quốc tế trong lĩnh vực KHXH ở Việt Nam dễ hơn trong lĩnh vực KHTN.
Sự quan tâm của học giả nước ngoài là lợi thế
GS Đức cho rằng Việt Nam có rất nhiều điểm đặc biệt để giới nghiên cứu KHXH nước ngoài quan tâm, chính vì thế, công bố quốc tế trong lĩnh vực KHXH thuận lợi hơn và dễ được trích dẫn cao hơn.
Ông Đức cho rằng đây là lợi thế của các ngành nghiên cứu KHXH chứ "các ngành kỹ thuật thì rất khó". Vì thế, "nếu như thúc đẩy công bố quốc tế trong lĩnh vực khoa học xã hội thì chắc chắn các chỉ trích dẫn của các công bố này sẽ cao".
Chia sẻ quan điểm này, PGS.TS Phạm Quang Minh, Hiệu trưởng ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn khẳng định "các lĩnh vực KHXH&NV dễ công bố quốc tế hơn" so với lĩnh vực KHTN.
Ông Minh nêu ra 4 khó khăn, rào cản của công bố quốc tế đối với lĩnh vực KHXH&NV tại Việt Nam như rào cản ngôn ngữ, phương pháp nghiên cứu, khả năng tiếp cận thông tin... nhưng đồng thời cũng khẳng định có tới 5 điểm thuận lợi để các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực KHXH&NV công bố quốc tế.
Theo ông Minh, giới nghiên cứu nước ngoài không tới Việt Nam để tìm hiểu về toán, lý hay hóa mà tìm hiểu về lịch sử và văn hóa nhiều hơn. "Việt Nam giống như một bảo tàng sống, là đối tượng nghiên cứu hấp dẫn của các nhà khoa học quốc tế", ông Minh nói.
Ông Minh cho rằng, sự quan tâm nhiều của giới học giả nước ngoài về các vấn đề của Việt Nam chính là một lợi thế để các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực KHXH&NV có thể công bố quốc tế nếu đầu tư nghiên cứu nghiêm túc theo đúng chuẩn mực của quốc tế.
Ông Đỗ Tiến Dũng, Giám đốc Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia (NAFOSTED) cũng chia sẻ công bố quốc tế thực ra không khó như mọi người vẫn nghĩ. Các con số thống kê cho thấy số lượng công bố quốc tế trong lĩnh vực KHXH&NV và KHTN của Việt Nam không chênh lệch nhau nhiều.
"Chẳng hạn, thống kê số lượng bài báo ISI năm 2012 Việt Nam lần đầu tiên vượt qua tỷ lệ 1/1000 số công bố có các tác giả là người Việt Nam tham gia trong năm đó thì tỷ trọng của các công bố quốc tế thuộc lĩnh vực KHXH&NV là 0,5/1.000, xấp xỉ một nửa", ông Dũng thông tin.
"Tính về tốc độ tăng trưởng số lượng công bố quốc tế, các ngành KHXH chỉ mất 5 năm để tăng gấp đôi trong khi các ngành KHTN phải mất tới 6-7 năm".
Tuy nhiên, ông Dũng cho rằng có sự chênh lệch khá lớn giữa các chuyên ngành. "Chẳng hạn như năm 2016, năm đầu tiên chúng tôi phê duyệt các đề tài với yêu cầu bắt buộc là phải có công bố quốc tế thì có những lĩnh vực có rất nhiều hồ sơ, chiếm tới 2/3 tổng số hồ sơ, song cũng có những lĩnh vực không có hồ sơ".
GS.TS Nguyễn Hữu Đức, Phó giám đốc ĐH Quốc gia Hà Nội cho rằng công bố quốc tế trong lĩnh vực KHXH&NV có nhiều lợi thế hơn so với các lĩnh vực KHTN. Ảnh: Lê Văn/VietNamNet.
"Công bố hay là chết"
Xác định công bố quốc tế là nhiệm vụ trọng tâm, buộc phải làm của một trường ĐH, PGS.TS Phạm Quang Minh dẫn lời các học giả nước ngoài khẳng định đã đến lúc phải xác định: "Công bố hay là chết".
"Một trường ĐH không có công bố không còn là trường ĐH nữa chứ chưa nói tới trường ĐH nghiên cứu", ông Minh nói thêm.
Từ đó, ông Minh thẳng thắn cho rằng không có vùng cấm trong khoa học, kể cả KHXH&NV. "Nhiều người nói rằng vấn đề này nhạy cảm lắm, không công bố được đâu. Tôi nói nhiều lần rồi, ai có bản thảo nhạy cảm thì đưa tôi xem có nhạy cảm thực không", ông Minh nói và cho biết "thực tế những thông tin số liệu chúng ta có các nhà khoa học đã có hết rồi. Có gì là nhạy cảm đâu?".
GS.TS Nguyễn Hữu Đức cũng khẳng định đã là nhà khoa học thì phải nghiên cứu và phải công bố quốc tế. Người nào đứng ngoài không tham gia thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng bản thân người đó trước hết.
Tuy nhiên, ông Đức cũng cho rằng công bố quốc tế như ISI chỉ mới là bắt đầu của nghiên cứu. Tuy nhiên, nếu không bắt đầu từ công bố quốc tế như ISI thì chúng ta không có kỹ năng, trí tuệ, không có tri thức lõi mà mãi mãi lẽo đẽo theo sau.
"ĐH Bắc Kinh của Trung Quốc có tàu Thần Châu, vậy ĐH Quốc gia Hà Nội có cái gì không? Chúng ta phải so sánh như vậy mới dám nghĩ, dám làm. Chứ hiện tại chỉ loay hoay với mấy trăm bài báo ISI đã chết rồi còn làm gì được nữa", ông Đức đặt vấn đề.
Nói về thực trạng công bố quốc tế trong lĩnh vực KHXH&NV của Việt Nam hiện tại, PGS.TS Nguyễn Văn Chính, Khoa Nhân học, ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn cho rằng, nghiên cứu của Việt Nam vẫn là tiếng nói "lạ" đối với thế giới.
Theo ông Chính, ngoài các vấn đề mang tính chất kỹ thuật, ngoại ngữ hay các chuẩn mực quốc tế trong trình bày nghiên cứu thì vấn đề tạo thành rào cản chính trong công bố quốc tế của lĩnh vực KHXH chính là nhận thức.
Ông Chính cho rằng còn có quá nhiều vấn đề được cho là "nhạy cảm" và các nhà khoa học chưa tạo được một nếp nghĩ, thói quen trong việc công bố quốc tế các thành quả nghiên cứu của mình. "Cần có sự thay đổi trong nhận thức ở tầm vĩ mô hơn về khoa học xã hội", ông Chính khẳng định.
Để thúc đẩy nghiên cứu quốc tế trong lĩnh vực KHXH&NV, GS.TS Nguyễn Hữu Đức đề xuất các trường, cũng như các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này nên thực hiện, gồm: Xây dựng một tạp chí chuẩn mực quốc tế và tổ chức tổ biên tập tiếng Anh cho tạp chí này.
Bên cạnh đó, ông Đức cho rằng để công bố quốc tế cần chọn lựa các tạp chí để gửi bài, đồng thời lựa chọn các chủ đề, đề tài dựa trên các ngân hàng dữ liệu mở hay ngân hàng dữ liệu mà Việt Nam đã bỏ tiền ra mua về.
Hiện nay, mỗi năm nhà nước chi 30 tỷ đồng để mua quyền truy cập cơ sở dữ liệu của Science Direct cho 4 đơn vị truy cập trong đó có ĐH Quốc gia Hà Nội, vì vậy, ông Đức cho rằng nếu các nhà nghiên cứu không truy cập khai thác dữ liệu này thì rất lãng phí.
Cuối cùng, ông Đức đề nghị ngành KHXH xây dựng ngân hàng các đầu bài thực hiện trong dài hạn cũng như tổ chức và khuyến khích các nhóm nghiên cứu mạnh, các nhóm nghiên cứu tiềm năng.
5 năm 23 công bố quốc tế ISI
Theo thống kế từ dữ liệu của Thomson Reuter Web of Science, trong vòng 5 năm từ 2011-2015, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội có 23 công bố quốc tế.
Trước đây đã có nhiều tranh cãi về việc số lượng công bố quốc tế của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội như vậy là quá ít so với tổng số tiền mà đầu tư cho viện này hàng năm.
Theo Lê Văn / VietNamNet
ĐH Quốc gia Hà Nội công bố điểm trúng tuyển đợt 2 ĐH Kinh tế, ĐH Ngoại Ngữ và các trường thành viên, khoa trực thuộc ĐH Quốc gia Hà Nội công bố điểm trúng tuyển đại học đợt 2 năm 2016. Các trường đại học thành viên của ĐH Quốc gia Hà Nội công bố điểm trúng tuyển đợt 2 năm 2016 bao gồm ĐH Công nghệ, ĐH Giáo Dục, ĐH Ngoại Ngữ, ĐH...