Thể chế hóa quan điểm đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT
Một trong những lý do cần thiết để sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Giáo dục đại học là nhằm đáp ứng những yêu cầu về thể chế hóa quan điểm đổi mới căn bản, toàn diện GDĐH của Đảng và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn để phát triển và hội nhập.
Thể chế hóa quan điểm đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT. Ảnh minh họa/internet
Quán triệt quan điểm đổi mới của Đảng
Báo cáo trước Ủy ban Thường vụ vụ Quốc hội về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Giáo dục đại học (GDĐH), Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ nêu rõ: Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) đã đề ra mục tiêu đối với GDĐH:
Tập trung đào tạo nhân lực trinh đô cao, bôi dương nhân tai, phát triển phẩm chất và năng lực tư hoc, tư làm giàu tri thưc, sang tao cua ngươi hoc; Hoàn thiện mang lươi cac cơ sở GDĐH, cơ câu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hơp vơi quy hoach phát triển nhân lưc quốc gia; Đa dạng hóa các loại hình cơ sở đào tạo phù hơp vơi nhu câu phát triển công nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề.
Theo đó, Nghị quyết số 29-NQ/TW đã đề ra các nhiệm vụ cho GDĐH như: Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở GDĐH gắn với quy hoạch phát triển kinh tê – xã hôi, quy hoach phat triên nguồn nhân lực; Thông nhât tên goi cac trinh đô đao tao, chuân đâu ra; Hoàn thiện mô hình đại học quốc gia, đại học vùng; Đây manh xã hôi hóa, trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp và GDĐH; Tăng tỉ lê trương ngoài công lập đôi vơi GDĐH; Đổi mới căn bản công tác quản lý GDĐH, bao đam dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở GDĐH; coi trọng quản lý chất lượng.
Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương khoá XII đã ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập đã chỉ rõ mục tiêu “Đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập, bảo đảm tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, có năng lực tự chủ, quản trị tiên tiến, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; giữ vai trò chủ đạo, then chốt trong thị trường dịch vụ sự nghiệp công; cung ứng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu có chất lượng ngày càng cao.
Giảm mạnh đầu mối, khắc phục tình trạng manh mún, dàn trải và trùng lắp; tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, viên chức.
Giảm mạnh tỉ trọng, nâng cao hiệu quả chi ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập để cơ cấu lại ngân sách nhà nước, cải cách tiền lương và nâng cao thu nhập cho cán bộ, viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập.
Phát triển thị trường dịch vụ sự nghiệp công và thu hút mạnh mẽ các thành phần kinh tế tham gia phát triển dịch vụ sự nghiệp công”.
Video đang HOT
Ảnh minh họa/internet
Giải quyết những vấn đề cấp bách
Do vậy, cần thiết phải đổi mới hệ thống quản lý GDĐH, với những nhiệm vụ chính là: Mở rộng phạm vi và nâng cao hiệu quả của tự chủ GDĐH trên các phương diện: hoạt động chuyên môn, tổ chức và nhân sự, tài chính và tài sản; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với GDĐH phù hợp với điều kiện tự chủ đại học, trên cơ sở sắp xếp lại hệ thống các cơ sở GDĐH, hoàn thiện cơ chế tài chính đối với GDĐH; Nâng cao năng lực quản trị của các cơ sở GDĐH; Đổi mới quản lý đào tạo để đảm bảo chất lượng, hiệu quả và tiệm cận với các chuẩn quốc tế…
Bên cạnh đó, yêu cầu về hội nhập quốc tế đối với GDĐH có tác động tới toàn bộ hệ thống, từ các nhà hoạch định chính sách, các cơ quan quản lý có thẩm quyền, các cơ sở GDĐH, người học và người dạy, cũng như hệ thống cơ quan, tổ chức sử dụng sản phẩm đào tạo của GDĐH.
Thực hiện hội nhập quốc tế đối với GDĐH sẽ đảm bảo tốt hơn lợi ích của người học và người dạy, của cơ sở GDĐH, khu vực doanh nghiệp và các cơ quan, đơn vị, tổ chức sử dụng sản phẩm GDĐH.
Điều đó không chỉ đóng góp phát triển kinh tế – xã hội của từng quốc gia mà còn đóng góp cho khu vực và thế giới theo cơ chế đa văn hóa, đa quốc gia nhưng chung thị trường và cạnh tranh cùng phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Đặc biệt, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đòi hỏi cần sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành trong thời gian qua khi tình hình kinh tế-xã hội của đất nước và thế giới đã có nhiều thay đổi khác biệt so với thời điểm ban hành Luật GDĐH năm 2012. Do đó, cần phải thay đổi quan điểm, mục tiêu, biện pháp điều chỉnh các chính sách đối với GDĐH.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành Luật GDĐH năm 2012, Dự án Luật được ban hành sẽ mở rộng phạm vi và nâng cao hiệu quả tự chủ đại học, giải quyết những đòi hỏi cấp bách trong đổi mới căn bản, toàn diện GDĐH, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để thúc đẩy hệ thống GDĐH phát triển.
Theo Giaoducthoidai.vn
Tạo cơ sở pháp lý thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
Tiếp tục chương trình phiên họp thứ 22, chiều 12/3, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục.
ảnh minh họa
Trình bày Tờ trình về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ cho biết qua 12 năm thực hiện, Luật Giáo dục đã góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục, nâng cao trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực, góp phần đào tạo nhân tài cho đất nước.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, luật đã nảy sinh một số điểm chưa phù hợp với tình hình thực tiễn, liên quan đến hệ thống giáo dục quốc dân; quản lý Nhà nước về giáo dục; đào tạo, bồi dưỡng đối với nhà giáo; chính sách đối với học sinh, sinh viên sư phạm...
Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục là cần thiết nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập, đồng thời tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục trong giai đoạn hiện nay, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn để phát triển và hội nhập.
Đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập
Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ nêu rõ ngay sau khi được giao chủ trì xây dựng dự thảo Luật, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thành lập Ban soạn thảo với thành phần là đại diện các cơ quan: Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, các bộ, ngành có liên quan để khẩn trương triển khai các hoạt động cần thiết xây dựng dự thảo Luật theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
Theo đó, dự thảo Luật được để xuất sửa đổi, bổ sung 50/114 điều, chiếm 44% tổng số điều của Luật Giáo dục hiện hành, bổ sung 3 điều và bãi bỏ 10 điều.
Nội dung chủ yếu của dự thảo Luật tập trung vào ba chính sách, cụ thể: Sửa đổi, bổ sung hệ thống giáo dục quốc dân, mục tiêu, yêu cầu, nội dung, phương pháp, chương trình giáo dục, văn bằng, chứng chỉ theo hướng mở, liên thông giữa các cấp học, trình độ đào tạo; sửa đổi, bổ sung quy định về giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên để đẩy mạnh phân luồng sau trung học cơ sở, định hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông, xây dựng xã hội học tập và học tập suốt đời.
Dự thảo Luật cũng sửa đổi, bổ sung các quy định về quản lý Nhà nước về giáo dục; đào tạo, bồi dưỡng đối với nhà giáo; chính sách đối với học sinh, sinh viên sư phạm.
Làm rõ các điều kiện để phát triển giáo dục có chất lượng
Thẩm tra sơ bộ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội tán thành với sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục.
Tuy nhiên, Thường trực Ủy ban cho rằng, việc sửa đổi, bổ sung như trong dự thảo Luật chưa đáp ứng được kỳ vọng của xã hội, chưa giải quyết thấu đáo các vấn đề đặt ra trong Tờ trình.
Nhiều quan điểm chỉ đạo trong Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế chưa được thể chế hóa; giáo dục vẫn chưa được đặt đúng vị trí là "quốc sách hàng đầu"; các điều kiện thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập của công dân trong bối cảnh giáo dục mới chưa được tiếp cận.
Do vậy, Ban soạn thảo cần tiếp tục nghiên cứu, bám sát các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước để thể chế hóa các chính sách cơ bản, tập trung làm rõ triết lý giáo dục, các điều kiện bảo đảm để phát triển giáo dục có chất lượng đồng thời cần nghiên cứu để đưa ra những quy định mang tính dự báo, đặt nền móng và tạo cơ sở pháp lý để triển khai những chính sách giáo dục mới.
Về chính sách thu hút học sinh, sinh viên sư phạm (Điều 89), dự thảo Luật đề xuất thay thế quy định miễn học phí cho học sinh, sinh viên sư phạm bằng quy định được vay tín dụng sư phạm để đóng học phí và chi trả sinh hoạt phí. Sau khi tốt nghiệp, nếu công tác trong ngành giáo dục đủ thời gian theo quy định sẽ không phải trả khoản vay tín dụng sư phạm.
Nhiều ý kiến tán thành với nội dung sửa đổi để thực hiện chi trả chính sách đúng đối tượng làm việc trong ngành giáo dục và đề nghị cần nghiên cứu kỹ cách thức tổ chức thực hiện để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người học; bổ sung quy định về việc hoàn trả học phí trong trường hợp người học tự đóng học phí.
Một số ý kiến đề nghị giữ lại quy định miễn học phí cho học sinh, sinh viên sư phạm để thể hiện rõ quan điểm, chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với việc đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo.
Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên, Nhi đồng của Quốc hội Phan Thanh Bình nhấn mạnh, dù thực hiện chính sách cấp tín dụng hay miễn học phí, để giải quyết các bất cập về lãng phí ngân sách, thời gian, nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng đào tạo sư phạm thì cần tổ chức tốt công tác quy hoạch các cơ sở đào tạo sư phạm, nhân lực ngành giáo dục, làm căn cứ để đầu tư đúng và đủ, bảo đảm việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp.
Đồng thời, dự thảo Luật cần sửa đổi các quy định về tuyển sinh, đào tạo sư phạm để nâng cao chất lượng đầu vào; nâng cao vị thế nhà giáo, tăng tính hấp dẫn của nghề giáo, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành giáo dục trong thời gian tới.
Tại phiên họp, các nội dung về chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; các cấp học, trình độ đào tạo và giáo dục thường xuyên; về đầu tư, tài chính trong giáo dục... cũng được các đại biểu phân tích, cho ý kiến cụ thể.
Theo Zing
Đà Nẵng thí điểm nhận trẻ từ 6 tháng tuổi 21 trường mầm non công lập ở Đà Nẵng sẽ thí điểm nhận trẻ từ 6 tháng tuổi từ năm học 2018 - 2019. Từ năm học 2018 - 2019, Đà Nẵng sẽ thí điểm nhận trẻ từ 6 - 18 tháng tuổi ở các quận, huyện của thành phố. Ảnh: HN Từ năm học 2018 - 2019, Đà Nẵng sẽ thí điểm...