Thầy Bùi Văn Quân đề xuất hướng phát triển trường đào tạo giáo viên địa phương
Để tạo điều kiện cho cơ sở đào tạo giáo viên trong bối cảnh mới, Bộ Giáo dục cần đẩy nhanh việc phân loại, đặc biệt là phân tầng các cơ sở này.
Hệ thống đào tạo giáo viên của nước ta hiện nay đã có cống hiến vô cùng to lớn với sự nghiệp phát triển giáo dục nước nhà, nhất là với giáo dục mầm non và phổ thông.
Tuy nhiên, hệ thống này cũng bộc lộ một số hạn chế như phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu phát triển giáo viên; Chưa có sự phân tầng trong mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên; Các cơ sở đào tạo giáo viên chưa gắn kết chặt chẽ với các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, chưa chú ý đúng mức đến các điều kiện đảm bảo chất lượng nên phát triển thiếu bền vững, năng lực cạnh tranh thấp…
Do đó, trong bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo hiện nay, cơ cấu mạng lưới và phương thức đào tạo giáo viên cần phải có sự thay đổi. Tuy nhiên, tái cấu trúc hệ thống này cần được thực hiện như thế nào là điều cần được bàn thảo kỹ.
Phó giáo sư Bùi Văn Quân – Hiệu trưởng trường Đại học Thủ đô Hà Nội chia sẻ với Báo điện tử Giáo dục Việt Nam rằng, cần khẳng định chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc xây dựng các trường sư phạm trọng điểm và nòng cốt là chủ trương đúng, hợp quy luật phát triển.
Bởi phát triển không đi theo hàng ngang mà cần đến những mũi nhọn, những khâu đột phá. Việc đầu tư xây dựng các trường sư phạm trọng điểm và nòng cốt là tạo mũi nhọn, tạo khâu đột phá nhờ đó kéo theo sự phát triển của ngành Sư phạm.
Theo Phó giáo sư Bùi Văn Quân, Để tạo điều kiện cho cơ sở đào tạo giáo viên trong bối cảnh mới, Bộ Giáo dục cần đẩy nhanh việc phân loại, đặc biệt là phân tầng các cơ sở này. (Ảnh minh họa trên giaoduc.net.vn)
Tuy nhiên, cũng nên nhận thức đầy đủ rằng, những thay đổi của các yếu tố mũi nhọn, đột phá là quan trọng nhưng không phải là tất cả, và những yếu tố này hoàn toàn không thể thay thế cho cả hệ thống.
Cụ thể hơn, cùng với việc xây dựng các trường sư phạm trọng điểm và nòng cốt cần phải có sự quan tâm thỏa đáng đến sự phát triển của các cơ sở đào tạo giáo viên khác, nhất là các cơ sở đào tạo giáo viên ở các địa phương.
Theo đó, thầy Quân cho rằng, vấn đề quan trọng là, không nên đặt vấn đề về sự tồn tại hay không tồn tại của các cơ sở đào tạo giáo viên ở địa phương mà cần đặt vấn đề về việc bằng cách nào để nâng cao ý nghĩa, nâng tầm giá trị của các cơ sở đào tạo giáo viên ở địa phương trong công cuộc đổi mới căn bản giáo dục và đào tạo, đặc biệt là trong triển khai thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới.
Bởi lẽ, các cơ sở đào tạo giáo viên ở địa phương luôn mong muốn một môi trường phát triển minh bạch, công bằng để phát huy tiềm năng của mình trong phát phát triển giáo dục của địa phương và cả nước.
Chính vì vậy, Hiệu trưởng trường Đại học Thủ đô Hà Nội đề xuất một số vấn đề cần được quan tâm để các cơ sở đào tạo giáo viên ở địa phương có được cơ hội thể hiện và phát triển.
Thứ nhất, các cơ sở đào tạo giáo viên ở địa phương có vai trò quan trọng trong việc đáp ứng đặc điểm về sự phân bổ rộng khắp của giáo dục.
Với giáo dục, ở đâu có dân cư, ở đó có giáo dục. Vì thế, phát triển nhân lực giáo dục phụ thuộc vào sự phát triển dân số, sự phát triển của các cộng đồng dân cư và phân bổ nhân lực giáo dục là rộng khắp, không đồng đều.
Đặc điểm này khiến cho nhu cầu về đào tạo giáo viên tại chỗ là nhu cầu có thật và các cơ sở đào tạo giáo viên địa phương đáp ứng tốt nhu cầu này.
Thứ hai, nhiều cơ sở đào tạo giáo viên ở địa phương sẽ đáp ứng tốt với những chuẩn mực về đào tạo giáo viên do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định
Quản lý dựa vào chuẩn là xu hướng của quản lý hiện đại. Môi trường công bằng cho sự phát triển của các cơ sở đào tạo giáo viên địa phương là các công cụ quản lý, điều hành các cơ sở đào tạo giáo viên nói chung do Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng, áp dụng.
Một trong những công cụ này là hệ thống chuẩn quy định đối với cơ sở đào tạo giáo viên và hoạt động đào tạo giáo viên áp dụng chung trong toàn quốc.
Với truyền thống nhiều năm xây dựng và phát triển, nhiều cơ sở đào tạo giáo viên ở địa phương sẽ đáp ứng được những chuẩn đó và đương nhiên nó phải được đầu tư, phát triển (các cơ sở đào tạo giáo viên ở địa phương rất cơ ưu thế về đào tạo giáo viên mầm non, tiểu học và trung học cơ sở).
Video đang HOT
Theo quan điểm này, một số cơ sở đào tạo giáo viên ở địa phương sẽ có cơ hội được lựa chọn đưa vào danh sách các trường sư phạm được lựa chọn để đầu tư xây dựng thành trường sư phạm trọng điểm, nòng cốt.
Thứ ba, các cơ sở đào tạo giáo viên ở địa phương có điều kiện thuận lợi trong việc gắn kết với các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông trên địa bàn và là đơn vị thực hiện các hợp đồng đào tạo giáo viên trên cơ sở dự báo nhân lực giáo dục của địa phương.
Hiện nay, do tình trạng thừa giáo viên, số sinh viên sư phạm tốt nghiệp chưa được tuyển dụng khá lớn nên dư luận xã hội có những bức xúc nhất định. Ngành giáo dục đã có những biện pháp nhằm điều chỉnh về quy mô đào tạo giáo viên, tuy nhiên đây là những biện pháp có tính chất tình thế, ứng phó dư luận trong bối cảnh “khủng hoảng thừa giáo viên”. Việc phát triển quy mô đào tạo giáo viên phải tính đến cả tình huống của “khủng hoảng thiếu giáo viên”.
Do vậy, có 2 việc phải làm: Một là, mỗi địa phương phải có dự báo nhân lực giáo dục với sự đa dạng các phương án dự báo; trên cơ sở đó thực hiện ký kết hợp đồng đào tạo với cơ sở đào tạo giáo viên ở địa phương (chú trọng về chất lượng đào tạo; các loại hình giáo viên…);
Hai là, tạo nguồn nhân lực dự trữ cho ngành giáo dục bằng việc triển khai nhiều mô hình, phương thức đào tạo giáo viên. Chẳng hạn, mô hình đào tạo tiếp nối không định hướng. Mô hình này tạo ra cơ hội cho nhiều sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng (không phải sư phạm) có thể trở thành giáo viên trong những bối cảnh cụ thể.
Thứ tư, những thay đổi về chuẩn trình độ đào tạo giáo viên rất cần đến sự hỗ trợ của Bộ Giáo dục và Đào tạo với các cơ sở đào tạo giáo viên ở địa phương
Việc nâng chuẩn trình độ đào tạo của giáo viên lên trình độ đại học là một rào cản không nhỏ với hướng phát triển của các cơ sở đào tạo giáo viên, nhất là các cơ sở đào tạo giáo viên hiện chỉ được phép đào tạo giáo viên trình độ cao đẳng.
Để tạo điều kiện cho các cơ sở đào tạo giáo viên trong bối cảnh mới, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần đẩy nhanh việc phân loại, đặc biệt là phân tầng các cơ sở đào tạo giáo viên.
Việc phân tầng các cơ sở đào tạo giáo viên không chỉ giúp định hướng đầu tư phát triển các cơ sở đào tạo giáo viên phù hợp mà còn giúp cho các cơ sở đào tạo giáo viên gắn kết chặt chẽ với nhau về phương diện chất lượng đào tạo; đồng thời đáp ứng yêu cầu kết hợp giữa quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ đối với các cơ sở đào tạo giáo viên.
Căn cứ kết quả phân tầng, có thể suy nghĩ đến mô hình đào tạo giáo viên bởi sự gắn kết trách nhiệm giữa các cơ sở đào tạo giáo viên trong việc đào tạo giáo viên có trình độ đại học, giải quyết bài toán đào tạo giáo viên trình độ đại học của các cơ sở đào tạo giáo viên ở địa phương hiện chưa được đào tạo giáo viên trình độ đại học (mô hình này khác với liên kết đào tạo, đào tạo liên thông chúng ta đang làm).
Thùy Linh
Theo giaoduc.net.vn
Giáo sư Lâm Quang Thiệp có 5 góp ý để đào tạo giáo viên
Theo Giáo sư Lâm Quang Thiệp, trong điều kiện định hướng thị trường việc đào tạo giáo viên nên triển khai trong các trường đại học đa lĩnh vực.
Việc đào tạo giáo viên ở nước ta, bên cạnh những thành tựu, còn tồn tại nhiều vấn đề.
Trong hàng chục năm qua tình trạng khi thừa khi thiếu giáo viên xảy ra thường xuyên. Có những năm tình trạng đó trầm trọng đến mức một số trường đại học sư phạm không tuyển được sinh viên, giảng viên không có việc làm.
Đó là chưa kể đến việc trình độ giáo viên không đáp ứng kịp sự tiến bộ của khoa học và công nghệ.
Tình hình nêu trên đặt vấn đề cần cấp bách đổi mới hệ thống đào tạo giáo viên.
Chia sẻ với Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư Lâm Quang Thiệp (Đại học Thăng Long) nêu một số ý kiến đóng góp về phương hướng đổi mới hệ thống đào tạo giáo viên, từ ba góc độ: mô hình cơ sở đào tạo giáo viên, quy trình đào tạo giáo viên và việc quản lý chất lượng và cung cầu.
Theo Giáo sư Lâm Quang Thiệp, cho đến nay hầu hết các cơ sở đào tạo giáo viên ở nước ta được xây dựng theo mô hình Liên Xô cũ: các trường đại học và cao đẳng sư phạm đơn lĩnh vực khép kín.
Các trường "đại học sư phạm" cũng không phải là "đại học giáo dục", vì chúng được phân chia thành các khoa chủ yếu theo môn học phải dạy ở trường phổ thông, rất ít các khoa chuyên về khoa học giáo dục.
Sở dĩ ở Liên Xô cũ các trường đại học được xây dựng theo mô hình đơn ngành, đơn lĩnh vực khép kín vì mô hình đó phù hợp với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung: chương trình đào tạo đại học liền một mạch theo chuyên môn hẹp, người tốt nghiệp được nhà nước phân phối vào các cơ sở kinh tế quốc doanh hoặc cơ quan nhà nước.
Khi chuyển qua kinh tế thị trường, mô hình nhà trường và quy trình đào tạo đó trở thành không phù hợp, nên nhiều nước có kinh tế chuyển đổi đã chuyển các trường đơn lĩnh vực thành đa lĩnh vực.
Mặc dù trong thời kỳ đầu đổi mới giáo dục đại học, Nhà nước ta cũng đã có chủ trương xây dựng các trường đại học mạnh theo mô hình đa lĩnh vực (các đại học quốc gia và đại học vùng), tuy tiến trình diễn ra không hoàn toàn suôn sẻ, dẫn đến hình thành các đại học "hai cấp".
Các trường đại học sư phạm thì phần lớn vẫn duy trì mô hình đại học đơn lĩnh vực khép kín, trừ một số trường đã chủ động xin đa lĩnh vực hóa và đổi tên (Đại học Vinh, Đại học Hải Phòng, Đại học Quy nhơn).
Sở dĩ đại học đa lĩnh vực là mô hình trường đại học tối ưu trong nền kinh tế thị trường vì mô hình đó giúp trang bị tốt nền tảng giáo dục khai phóng (đào tạo theo diện rộng, coi trọng giáo dục đại cương); thuận lợi trong nghiên cứu khoa học và phục vụ xã hội và dễ thích nghi với biến động của thị trường nhân lực.
Theo Giáo sư Lâm Quang Thiệp, trong điều kiện định hướng thị trường việc đào tạo giáo viên nên triển khai trong các trường đại học đa lĩnh vực. (Ảnh: Thùy Linh)
"Có thể thấy một lý do quan trọng tạo nên khó khăn trong tuyển sinh ở các trường đại học sư phạm là ở mô hình trường sư phạm đơn lĩnh vực khép kín.
Do đó, trong điều kiện định hướng thị trường việc đào tạo giáo viên nên triển khai trong các trường đại học đa lĩnh vực chứ không nên co cụm trong các trường đại học sư phạm đơn lĩnh vực khép kín", Giáo sư Lâm Quang Thiệp đề xuất.
Về quy trình đào tạo giáo viên, Giáo sư Thiệp cho hay, đối với bậc trung học, trên thế giới thường có hai quy trình đạo giáo viên: đào tạo song song và đào tạo nối tiếp.
Giáo sư Lâm Quang Thiệp nói rõ thêm, đào tạo song song là cách thực hiện đào tạo môn học và đào tạo nghiệp vụ sư phạm đồng thời trong suốt chương trình đại học.
Theo quy trình này giáo viên được định hướng sư phạm ngay từ lúc bước vào đại học, chương trình môn học ở đại học bám sát chương trình môn học ở bậc phổ thông.
Đào tạo nối tiếp là đào tạo môn học trước, thường ở hai năm đầu đại học, đào tạo nghiệp vụ sư phạm sau, thực hiện ở hai năm cuối đại học. Một kiểu đào tạo nối tiếp nữa là đào tạo môn học ở chương trình cử nhân, và đào tạo nghiệp vụ sư phạm ở chương trình cao học.
Ý tưởng của quy trình đào tạo nối tiếp này là trang bị cho sinh viên tiềm năng khoa học để họ vận dụng trong quá trình hành nghề chứ không phải "cầm tay chỉ việc", đào tạo người thầy chứ không phải người "thợ dạy".
Ưu điểm của đào tạo song song là sinh viên được "cầm tay chỉ việc" trong giảng dạy, dễ có các thao tác sư phạm tốt ngay từ khi ra trường.
Nhược điểm của đào tạo song song, một là kiến thức môn học của sinh viên không thật sâu sắc, hai là sinh viên khó chuyển đổi nghề nghiệp khi có biến động của thị trường nhân lực.
Nhược điểm của đào tạo nối tiếp có thể là ở giai đoạn đầu hành nghề người giáo viên chưa thật thành thạo việc giảng dạy,họ cần một thời gian để thích nghi.
Tuy nhiên ưu điểm của đào tạo nối tiếp là giáo viên hiểu sâu về môn học cũng như những kiến thức về khoa học giáo dục để vận dụng có hiệu quả trong suốt cuộc đời giảng dạy.
Mô hình đào tạo song song thường được thực hiện trong các trường đại học sư phạm đơn lĩnh vực khép kín, mô hình đào tạo nối tiếp lại được lựa chọn ở những nước đào tạo giáo viên trong các đại học đa lĩnh vực, hoặc ở các nước không có các trường đại học sư phạm mà chỉ có các khoa giáo dục trong đại học đa lĩnh vực (như Hoa Kỳ).
"Nếu xét theo định hướng thị trường thì đào tạo giáo viên theo mô hình nối tiếp phù hợp hơn và có hiệu quả hơn", vị này nêu quan điểm.
Ngoài ra, giáo sư Lâm Quang Thiệp cũng cho rằng, quản lý chất lượng đào tạo giáo viên cần chú ý đến đầu vào và quá trình đào tạo.
Do đó, muốn đầu vào tốt, tức là tuyển được những sinh viên giỏi vào ngành sư phạm, cần có chính sách vĩ mô tạo nên sự hấp dẫn của nghề giáo viên.
Thầy Thiệp nêu ví dụ, trên thế giới có nhiều nước quy định giáo viên có mức lương cao, chẳng hạn nghề giáo viên ở Đài Loan có mức thu nhập cao hơn khoảng 20%-30% so với các ngành nghề khác.
Hoặc ở Hàn Quốc mức lương khởi điểm và mức lương khi về hưu của giáo viên đều cao hơn các mức trung bình tương ứng của các nước OECD.
Ngoài ra, có thể đưa ra các chính sách ưu tiên đối với sinh viên sư phạm khi cho vay và cấp học bổng trong quá trình học tập.
Muốn quá trình đào tạo tốt cần tạo cơ hội cho sinh viên sư phạm được học ở những môi trường đào tạo tốt nhất. Quy trình đào tạo nối tiếp chính là sự đảm bảo để sinh viên sư phạm được học các môn học ở các khoa khoa học cơ bản, nơi thường có các giáo sư giỏi nhất.
Và cần tạo một cơ chế liên thông nhằm đảm bảo cho sinh viên các chương trình cử nhân khoa học cơ bản được học nối tiếp ở các trường đại học sư phạm, hoặc sinh viên các trường kỹ thuật nông, công nghiệp được học nối tiếp ở các trường đại học sư phạm kỹ thuật để trở thành giáo viên.
Quản lý cung cầu có thể theo hai cơ chế: cơ chế đặt hàng và cơ chế dựa vào tín hiệu của thị trường.
Người đặt hàng cho các trường sư phạm có thể là Bộ Giáo dục và Đào tạo hoặc các Sở Giáo dục và Đào tạo, căn cứ vào dự báo nhu cầu về các loại giáo viên và các bậc học. Hiển nhiên muốn đặt hàng chính xác phải dự báo đúng nhu cầu giáo viên. Nếu việc đặt hàng được kèm theo các điều kiện cung cấp tài chính thì càng tốt.
Nếu theo cơ chế dựa vào tín hiệu của thị trường thì cần đảm bảo cho sinh viên có thể tự điều chỉnh ngành nghề.
Chính quy trình đào tạo nối tiếp tạo cơ hội cho sinh viên chuyển đổi ngành nghề sau hai năm đầu đại học.
Cơ chế tín dụng ưu đãi cho sinh viên sư phạm và miễn hoàn trả sau khi tốt nghiệp nếu họ hành nghề sư phạm cũng giúp sinh viên điều chỉnh theo thị trường.
Từ các phân tích trên Giáo sư Lâm Quang Thiệp đề xuất một số khuyến nghị cho việc sắp xếp, tổ chức lại hệ thống đào tạo giáo viên ở nước ta bao gồm:
Thứ nhất, không nên duy trì việc đào tạo giáo viên trong các trường đại học sư phạm khép kín. Để cho các trường đại học sư phạm tự chủ phát triển thành các đại học đa lĩnh vực, trong đó có thể ưu tiên lĩnh vực sư phạm.
Thứ hai, nên lựa chọn mô hình quy trình đào tạo nối tiếp, đặc biệt đối với giáo viên phổ thông trung học. Khi tiềm lực kinh tế của đất nước đảm bảo, nên ưu tiên đào tạo giáo viên phổ thông trung học theo mô hình: cử nhân khoa học cơ bản cao học nghiệp vụ sư phạm.
Thứ ba, nên ban hành quy chế liên thông giữa các trường đại học khoa học cơ bản và kỹ thuật công, nông nghiệp tương ứng với các trường đại học sư phạm và sư phạm kỹ thuật.
Thứ tư, nên có chính sách tín dụng và học bổng ưu tiên cho sinh viên sư phạm, chính sách miễn hoàn trả tín dụng nếu họ hành nghề sư phạm.
Thứ năm, Nhà nước cố gắng nâng hệ thống lương giáo viên ở mức độ có thể.
Thùy Linh
Theo giaoduc.net.vn
Thực hiện chương trình - Sách giáo khoa mới: Quan trọng là đội ngũ giáo viên Đổi mới đào tạo đội ngũ giáo viên (GV), đáp ứng chương trình - sách giáo khoa (CT-SGK) giáo dục phổ thông mới được Bộ GDĐT coi là nhiệm vụ trọng tâm, then chốt. Trong đó, chú trọng tăng cường kết nối giữa lý thuyết và thực hành cũng như phát triển năng lực dạy học theo hướng giúp cho học sinh (HS)...