Thái Nguyên: Dành nguồn lực chăm lo học sinh dân tộc thiểu số
Với sự đầu tư nâng cấp, mở rộng quy mô hệ thống các trường dân tộc nội trú, công tác giáo dục, chăm sóc học sinh dân tộc thiểu số của Thái Nguyên đạt nhiều kết quả tích cực.
Khu nội trú trường PTDTNT THCS Đồng Hỷ.
Nâng cấp các trường dân tộc nội trú
Vào năm học 2014 – 2015, với 1730 học sinh tại 5 trường THCS và 1 trường THPT hệ dân tộc nội trú, tỉ lệ huy động học sinh là người dân tộc thiểu số được học tại các trường phổ thông dân tộc nội trú của Thái Nguyên mới chỉ đạt 5,65%.
Vì vậy, việc nâng cấp, mở rộng quy mô các trường PTDTNT tỉnh Thái Nguyên là rất cần thiết, nhằm đáp ứng đáp nhu cầu được học tập của con em dân tộc, tăng tỷ lệ huy động học sinh dân tộc thiểu số được học tại các trường PTDTNT, hạn chế hiện tượng học sinh bỏ học; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho đối tượng học sinh dân tộc trên địa bàn tỉnh.
Đề án nâng cấp, mở rộng quy mô các trường PTDTNT tỉnh Thái Nguyên hướng đến mục tiêu phát triển hệ thống này theo hướng trường trung học đạt chuẩn quốc gia, đảm bảo các điều kiện giáo dục đặc thù; nâng cao chất lượng giáo dục và hiệu quả đào tạo, phấn đấu trường PTDTNT trở thành trường hàng đầu về chất lượng giáo dục ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số; thực hiện tốt nhiệm vụ tạo nguồn đào tạo cán bộ cho các dân tộc thiểu số, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của miền núi, vùng dân tộc thiểu số.
Điều kiện ăn ở, sinh hoạt và học tập của các em học sinh trường PTDTNT THCS Phú Lương luôn được đảm bảo
Tổng mức đầu tư cho chương trình là hơn 200 tỷ đồng, với nhiều nội dung, hạng mục quan trọng: Xây mới, mở rộng quy mô trường PTDTNT Định Hóa; Đầu tư xây dựng hoàn thiện các hạng mục công trình của 3 trường PTDTNT cấp THCS tại Đại Từ, Đồng Hỷ, Phú Lương.
Ngoài xây mới nhà lớp học bộ môn, nhà tập đa năng, nhà công vụ, chương trình còn mở rộng diện tích đất của mỗi trường thêm 1 hecta; xây dựng 22 phòng học, 85 phòng nội trú cho học sinh; mở rộng nhà bếp, nhà ăn; đầu tư thêm trang thiết bị nội thất phục vụ các hoạt động học tập và sinh hoạt.
Video đang HOT
Chương trình cũng nâng quy mô của trường THPT DTNT tỉnh từ 360 học sinh lên 540 học sinh, quy mô các trường THCS từ 240 lên 360 học sinh mỗi trường; Bổ sung thêm biên chế giáo viên, nhân viên theo thực tiễn các nhà trường nhằm đáp ứng yêu cầu dạy học của các đơn vị.
Đảm bảo điều kiện giáo dục, chăm sóc
Đến năm học 2020 – 2021, tổng số học sinh nội trú của toàn tỉnh là 2.430 học sinh, nâng tỷ lệ học sinh là người dân tộc thiểu số được học tại các trường PTDTNT lên 8,16%. Đây là kết quả vượt bậc từ sự nỗ lực, chung tay của địa phương và cả hệ thống các cơ sở giáo dục.
Học sinh dân tộc nội trú không chỉ được hưởng học bổng theo quy định hiện hành, mà còn có các chế độ hỗ trợ khác như miễn giảm học phí, hỗ trợ tiền tàu xe, học phẩm, tiền điện, nước, bảo hiểm y tế… Các em được tổ chức sinh hoạt tập trung, đảm bảo dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm, chăm sóc sức khoẻ kịp thời. Nhờ vậy, các em hoàn toàn yên tâm, tập trung cho việc học tập.
“Phát triển giáo dục vùng dân tộc thiểu số, miền núi là một nhiệm vụ mang ý nghĩa lớn, đặc biệt là trong việc tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để quay lại phục vụ, xây dựng, phát triển địa phương. Tại các trường dân tộc nội trú, các nhà trường có điều kiện quan tâm đến từng em, việc giáo dục, chăm sóc luôn tập trung cao độ và sát sao hằng ngày, cho nên chất lượng và hiệu quả rất tốt” – ông Phạm Việt Đức, Giám đốc Sở GD&ĐT Thái Nguyên nhấn mạnh.
Tiết học của các em học sinh trường PT DTNT tỉnh Thái Nguyên
Là một cơ sở được thụ hưởng chương trình, trường PTDTNT THCS Đồng Hỷ được xây mới 1 nhà lớp học 3 tầng, 1 nhà nội trú 24 phòng, nhà đa năng, bể bơi, xây thêm tầng 2 cho nhà ăn. Về quy mô, những năm trước đây nhà trường duy trì ở mức 8 lớp với khoảng 250 học sinh, đến năm học 2020 – 2021 đã tăng lên 11 lớp với 346 học sinh.
“Quy mô lớp học của nhà trường tăng lên, đồng nghĩa với việc đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của con em đồng bào khu vực địa bàn các huyện Đồng Hỷ, Võ Nhai, Phú Bình. Điều kiện cơ sở vật chất được nâng cấp, hoàn thiện, các hoạt động giáo dục, chăm sóc cho học sinh được triển khai một cách chủ động, đảm bảo hơn. Đồng thời, nhà trường cũng trở thành địa chỉ, cơ sở tổ chức các hoạt động của ngành giáo dục địa phương như các hội nghị, hội thi, chương trình tập huấn…” – thầy giáo Nguyễn Đức Lợi, Hiệu trưởng nhà trường trao đổi.
Đối với trường PTDTNT THCS Phú Lương, đơn vị được xây mới 1 nhà tổ hợp gồm lớp học, phòng chức năng bộ môn, nhà đa năng; 1 nhà ký túc xá 16 phòng với khả năng phục vụ cho khoảng 130 em. Quy mô học sinh nhà trường trước đây là 8 lớp/250 học sinh, năm học này tăng lên 11 lớp/323 học sinh.
“Huyện Phú Lương có nhiều học sinh là con em các dân tộc thiểu số mà điều kiện còn khó khăn, như Mông, Cao Lan, San Chí, Sán Dìu… Một môi trường học tập và sinh hoạt tập trung là vô cùng ý nghĩa và cần thiết cho các em. Đến nay, nhà trường đã đủ phòng để tổ chức ôn tập, bồi dưỡng, phụ đạo, tổ chức học 2 buổi thuận lợi hơn, đủ các điều kiện để đáp ứng tốt các hoạt động giáo dục” – cô giáo Phan Thị Phương Ly, Hiệu trưởng nhà trường chia sẻ.
Tôi ước không còn học trò bỏ học vì đói nghèo, lạc hậu
Nhận thức của gia đình và học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong việc học tập còn nhiều hạn chế. Bởi vậy, các em đến trường học tập, vui chơi với bạn bè đồng trang lứa đã là ước mơ lớn của các thầy cô.
Cô Lê Thị Thu Trang chăm học trò nhập viện do ốm không đi bệnh viện mà mời thầy cúng. (Ảnh: NVCC)
Day dứt với hoàn cảnh của học trò
Đại sứ chương trình "3 điều ước" của tỉnh Phú Yên - cô giáo Lê Thị Thu Trang (dân tộc Nùng), Giáo viên Ngữ văn trường Tiểu học và THCS EaTrol, huyện Sông Hinh tâm sự: Bản thân tôi gắn bó nhiều năm với phụ huynh và học sinh người dân tộc thiểu số, đặc biệt là công tác vận động học sinh bỏ học đến trường.
Các em bỏ học vì nhiều lý do như: Vì hoàn cảnh gia đình quá khó khăn mà phải đi làm thuê, chăn bò thuê, cuốn vào cuộc mưu sinh, vì bản thân và gia đình các em chưa ý thức được vai trò của việc học tập... Trong cuộc đời đi dạy của mình, có lẽ điều khiến tôi ám ảnh, đau lòng mãi, đó là câu chuyện về một học sinh nghèo khốn khổ và lý do bỏ học của em khiến tôi đau xót.
Đó là học trò Trần Thị Thanh Huyền mà cô Thu Trang trực tiếp dạy em trong gần 3 năm học. Năm học 2011-2012, Huyền là học lớp 7C, trường Phổ thông Cấp II-III Tân Lập; Năm học 2012-2013, khi được điều động đến dạy học tại trường THCS EaLy, cô Thu Trang lại gặp em và dạy em ở lớp 8B. Cho đến đầu học học kỳ II, lớp 9, năm học 2013-2014, Huyền bỏ học. Lý do em bỏ học của em Huyền luôn là nỗi day dứt, ám ảnh đối với cô giáo trẻ Lê Thị Thu Trang...
Theo lời kể của cô giáo Thu Trang, Huyền là chị cả của hai em nhỏ, một em gái học lớp 5, một em trai 4 tuổi học mẫu giáo. Cả 3 chị em sống với bà nội hơn 80 tuổi, bố mẹ của em đi làm rẫy ở xa, thỉnh thoảng mới về. Khoảng hơn 12h trưa ngày 15/2/2012, em gái của Huyền ra ao của một người hàng xóm để mò ốc, xúc hến cải thiện bữa ăn hằng ngày chỉ có cơm trắng và muối ớt thì chẳng may chết đuối dưới ao.
Không lâu sau, bà nội của em qua đời, mẹ đem theo em trai bỏ nhà đi đâu không rõ. Em sống với bố. Trong suốt năm học lớp 8 và học kỳ 1 lớp 9, em thường xuyên đói ăn, thiếu mặc. Không chỉ thiếu thốn về vật chất mà em còn thiếu thốn cả về tinh thần, thiếu tình yêu thương, sự quan tâm dạy bảo của bố mẹ. Em thường bị bố đánh, chửi mắng...
Mong sao không còn học trò phải bỏ học... vì nghèo
Nhớ lại thời gian đó, cô Thu Trang vẫn không khỏi bùi ngùi: Có lẽ vì thấy tôi hay quan tâm nên em Huyền thường hỏi mượn tiền tôi. Khoảng thời gian đó, tôi rất khó khăn. Hai con tôi còn nhỏ, mẹ chồng già hay đau yếu, chồng thường xuyên đi công tác, đi học tập, bồi dưỡng chuyên môn vắng nhà...
Ngày dạy 2 buổi, mỗi tuần tôi dạy 31 tiết (19 tiết dạy chính khóa buổi sáng, 12 tiết dạy bồi dưỡng học sinh giỏi vào buổi chiều), cứ đến trưa là tôi phải chạy xe về nhà, tất bật việc nhà, chăm con..., xong lại vội vã "phóng" xe đi ngay; trường cách nhà gần 30km, nhiều khi tôi như "anh hùng xa lộ" cho kịp giờ dạy. Việc thường xuyên đi - về như thế cũng khiến tôi phải lao đao vì không đủ tiền đổ xăng. Đi dạy cả ngày đã mệt, lại dắt chiếc xe nên tôi càng mệt thêm.
Cô Lê Thị Thu Trang tận tuỵ bên học trò.
"Bao khó khăn, vất vả rồi cũng qua nhưng những lúc học trò khó khăn, hỏi mượn tiền, tôi chỉ có thể cho em vài chục nghìn dung đỡ tạm, không có nhiều cho em, tôi đau lòng lắm.", cô Thu Trang sẻ.
Đến đầu học kỳ 2 năm học 2013-2014, em Huyền thường xuyên vắng học. Tuy không phải là giáo viên chủ nhiệm của em, nhưng tôi thường tìm em để động viên, thuyết phục em quay lại trường. Em có nghe lời tôi, quay lại trường học lác đác vài buổi rồi nghỉ hẳn.
Tôi hỏi thăm, được biết em Huyền làm nhân viên gội đầu ở tỉnh ĐăkLăk. Tôi biết, có một chị đồng nghiệp cũng rất thương Huyền nên tôi tâm sự với chị, rủ chị cùng đi ĐăkLăk với tôi một chuyến, thuyết phục Huyền quay về học. Sau những thuyết phục không thành, đến giờ tôi vẫn nhớ như in câu nói của chị đồng nghiệp: "Thôi em ạ, để cho em ấy đi làm cho thanh thản, đừng cố níu kéo". Câu nói ấy của chị và tình cảnh đáng thương của em Huyền khiến tôi rất đau xót.
Đó là nỗi đau của một người giáo viên đã không thể làm chỗ dựa cho một thân phận bé nhỏ, đáng thương, mới chỉ là học sinh trung học cơ sở mà đã phải bước vào đời mưu sinh, không được tiếp tục đến trường ...
Chứng kiến nhiều hoàn cảnh và lý do bỏ học của các em học sinh con em đồng bào dân tộc thiểu số, Cô Thu Trang luôn canh cánh điều ước, đời sống đồng bào được cải thiện, nhận thức của đồng bào về sự học được nâng lên, điều kiện học tập của các em học sinh sẽ nhận được thêm sự hỗ trợ từ các cấp, các ngành để hút các em đến lớp.
"Thời gian tới, tôi dự định sẽ tìm một việc làm ngoài giờ để có thêm thu nhập, mong giúp đỡ phần nào cho những học sinh có hoàn cảnh khó khăn, bất hạnh.", cô Thu Trang cho biết.
"Hơn 17 năm gắn bó với học sinh vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, tôi nhận thấy, có những năm tỷ lệ học sinh bỏ học khá cao, không phải vì điều kiện kinh tế khó khăn mà chính là sự nhận thức từ gia đình và các em. Có những phụ huynh và học sinh cho rằng đi học là vì mục đích để sau này làm cán bộ, công chức, viên chức nhà nước còn nếu học xong lỡ không xin được việc làm trong nhà nước mà về làm rẫy thì không cần học để làm gì?.
Thiết nghĩ, chỉ khi các em được tạo điều kiện để học tập thì nhận thức xã hội của thế hệ công dân tương lai mới được cải thiện. Và nhờ vậy, sẽ không còn hệ luỵ học sinh thất học nữa. Trẻ em dân tộc thiểu số bởi vậy cần được quan tâm, động viên hơn nữa về mọi mặt với sự chung tay của toàn xã hội.
Những người làm giáo dục vùng khó ước mong được tiếp sức vì tương lai của học trò nghèo và sự phát triển bền vững của địa phương.", cô Thu Trang trải lòng.
Ước mong của người thầy nghèo cho học sinh dân tộc thiểu số 27 năm gắn bó với học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thầy A Phiên chỉ mong học trò của mình được ăn no, mặc ấm khi đến trường. Thầy A Phiên chăm lo cho từng bữa cơm của học trò. Tuổi thơ của thầy A Phiên - giáo viên Trường PTDT bán trú Tiểu học - THCS Tu Mơ Rông...