Tạo dựng môi trường giao tiếp bằng Tiếng Việt cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số
Đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số (DTTS) giai đoạn 2016 – 2020, định hướng đến 2025″đã bảo đảm các em có kỹ năng cơ bản trong việc sử dụng tiếng Việt.
Giờ hoc tang cuờng tiếng việt tại Truờng tiểu học Đề Tham (Trang Đinh) tỉnh Lang son. Ảnh: Báo Lạng sơn
Hiệu quả của đề án tăng cường tiếng Việt
Đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số (DTTS) giai đoạn 2016 – 2020, định hướng đến 2025″đã bảo đảm các em có kỹ năng cơ bản trong việc sử dụng tiếng Việt để hoàn thành chương trình giáo dục tiểu học. Đồng thời, tạo tiền đề để học tập, lĩnh hội tri thức của các cấp học tiếp theo góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, chất lượng cuộc sống và phát triển bền vững các DTTS.
Đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016 – 2020, định hướng đến 2025″ đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, có ít nhất 35% trẻ em người dân tộc thiểu số trong độ tuổi nhà trẻ và 90% trẻ em người DTTS trong độ tuổi mẫu giáo; trong đó, 100% trẻ em trong các cơ sở giáo dục mầm non được tập trung tăng cường tiếng Việt phù hợp theo độ tuổi; hằng năm, 100% học sinh tiểu học người DTTS được tập trung tăng cường tiếng Việt.
Đề án được áp dụng tại các cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học có trẻ em, học sinh tiểu học người DTTS thuộc 42 tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương có đông đồng bào DTTS .
Sau 4 năm triển khai thực hiện, Đề án đã thực sự làm thay đổi chất lượng giáo dục tiểu học tại các vùng DTTS. Nhờ thành thạo tiếng Việt, nhiều học sinh DTTS không chỉ nắm vững hơn các môn học khác mà còn trở nên tự tin trong học tập lẫn cuộc sống.
Tại tỉnh Sơn La, sau 4 năm triển khai đề án, đến nay, tỷ lệ trẻ mầm non vùng DTTS ra trường/lớp đạt 96%; 97% trẻ em mầm non được học 2 buổi/ngày theo chương trình giáo dục mầm non; đa số trẻ (DTTS) mạnh dạn, tự tin giao tiếp bằng tiếng Việt và đánh giá đạt yêu cầu theo lĩnh vực phát triển, môn học; 95% giáo viên mầm non, 75% giáo viên tiểu học dạy trong các trường có học sinh DTTS có trình độ đào tạo đạt chuẩn trở lên; 95% giáo viên mầm non được bồi dưỡng tiếng dân tộc, gần 50% giáo viên tiểu học biết tiếng dân tộc, dạy đúng tiếng dân tộc…
Từ năm 2016 đến nay, toàn tỉnh đã hỗ trợ 22,2 tỷ đồng kinh phí bổ sung thiết bị dạy học phục vụ tăng cường tiếng Việt cho trẻ DTTS. Giai đoạn 2020-2025, ngành Giáo dục tiếp tục đẩy mạnh công tác tăng cường tiếng Việt cho trẻ DTTS; nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên; tăng cường cơ sở vật chất, hỗ trợ chuyên môn cho các trường học sinh tiểu học, mầm non DTTS trên địa bàn.
Học Tiếng Việt đã trở nên gần gũi với trẻ em vùng dân tộc thiểu số
Video đang HOT
Tại tỉnh Lạng Sơn, sau 4 năm triển khai đề án, chất lượng học tiếng Việt của trẻ em, học sinh DTTS trên địa bàn đã có chuyển biến tích cực. Theo thống kê hằng năm, 100% trẻ DTTS trong các cơ sở giáo dục mầm non đều được tăng cường tiếng Việt, có trên 99% trẻ mầm non ra lớp được đánh giá đạt mục tiêu phát triển ngôn ngữ theo độ tuổi; 100% trẻ mẫu giáo 5 tuổi ra trường nhận biết và phát âm đúng các chữ cái tiếng Việt. Đối với cấp tiểu học, từ năm học 2016 – 2017 đến nay, hằng năm, tỉ lệ học sinh hoàn thành và hoàn thành tốt môn tiếng Việt luôn đạt trên 99%.
Tại Bình Thuận, Theo đánh giá của Sở Giáo dục và Đào tạo, sau 5 năm (2016 – 2020) triển khai thực hiện đề án, có 4.892/9.557 trẻ DTTS bậc mầm non đến trường, đạt 51,19%; 100% trẻ DTTS ra lớp đều được tăng cường tiếng Việt. Từ đó, trẻ có khả năng nắm bắt ngôn ngữ tiếng Việt, thường xuyên giao tiếp bằng tiếng Việt, mạnh dạn, tự tin, có kiến thức cơ bản để bước vào lớp 1.
Còn đối với bậc tiểu học, chất lượng học tập môn tiếng Việt của học sinh cũng được nâng lên rõ rệt. Nhất là năng lực sử dụng tiếng Việt của học sinh từ lớp 2 đến lớp 5 có nhiều tiến bộ hơn. Đa số các em có khả năng nói, nghe hiểu để giao tiếp trong sinh hoạt và đáp ứng yêu cầu học tập.
Tại tỉnh Quảng Ninh, Sau 4 năm triển khai Đề án, chất lượng hoạt động tăng cường tiếng Việt cho trẻ em, học sinh vùng DTTS trong các cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học được nâng lên rõ rệt. Nhiều hoạt động tăng cường tiếng Việt được cơ sở giáo dục, giáo viên triển khai sáng tạo cả về hình thức tổ chức và phương pháp giáo dục.
Môi trường tiếng Việt phong phú, đa dạng, tạo nhiều cơ hội để trẻ được giao tiếp, làm giàu ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ. Tỷ lệ trẻ em người DTTS trong độ tuổi nhà trẻ được huy động ra lớp đạt 37,9%, trẻ mẫu giáo đạt 97,3%. 100% trẻ em mầm non và học sinh tiểu học người DTTS trong các cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học được tập trung tăng cường tiếng Việt phù hợp với độ tuổi.
Bên cạnh các kết quả khả quan đáng ghi nhận, Đề án cũng phải đối diện với vấn đề “tái mù chữ” khi học sinh dân tộc không thể đến trường.
Duy trì các giải pháp tạo dựng môi trường giao tiếp Tiếng Việt
Chỉ đạo rà soát việc xây dựng môi trường tăng cường tiếng Việt cho trẻ em DTTS trong các cơ sở giáo dục mầm non theo bộ tiêu chí cần được triển khai quyết liệt.
Trong quá trình xây dựng môi trường tăng cường tiếng Việt (TCTV), cần chú ý: phân loại khả năng tiếng Việt của trẻ để có phương pháp, nội dung TCTV phù hợp với đối tượng trẻ; tăng thời lượng tập nói tiếng Việt, lồng ghép tăng cường tiếng Việt vào các hoạt động giáo dục. Chú ý cung cấp đầy đủ tài liệu, học liệu cho giáo viên và trẻ nhằm đảm bảo chất lượng tăng cường tiếng Việt.
Nhằm hướng đến mục đích rèn các kỹ năng cần thiết nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt cho học sinh dân tộc thì nhiệm vụ đầu tiên của giáo viên là tăng cường hoạt động giao tiếp bằng tiếng Việt. Học sinh dân tộc ở các lớp ghép thường ít có cơ hội giao tiếp tiếng Việt, mặt khác học sinh ở các lớp ghép thường có tâm lý nhút nhát, thiếu tự tin, ngại giao tiếp với người lạ…do đó giáo viên cần tạo nhiều cơ hội để học sinh giao tiếp .
Cụ thể như cho học sinh tập nói Tiếng Việt thông qua các hoạt động chào hỏi, tự thuật, mô tả các sự vật, hiện tượng trong môi trưòng xung quanh để tận dụng những tình huống thực, mở rộng dần vòng giao tiếp từ hẹp đến rộng, từ gần đến xa.
Trong quá trình dạy học, thường xuyên đặt câu hỏi, hướng dẫn học sinh đặt câu hỏi, dạy cách giao tiếp với người lớn tuổi trong trường và ở địa phương nơi sinh sống.
Thường xuyên tổ chức các hoạt động tập thể như trò chơi, múa hát,… để học sinh dân tộc dễ dàng tiếp thu tiếng Việt.
Xây dựng các tình huống giả định như: cho học sinh đóng vai các nhân vật trong bài học, tạo ra các tình huống để học sinh đóng vai …
Trong quá trình giao tiếp cần lưu ý nhắc nhở học sinh thường xuyên sử dụng tiếng Việt để giao tiếp với bạn bè trong giờ ra chơi. Nội dung giao tiếp cần gắn với chủ điểm đã học (về bản thân, bạn bè, gia đình,bản làng…)
Tạo nhiều môi trường giao tiếp tiếng Việt ở gia đình, trong cộng đồng, đặc biệt là sử dụng sách báo, tranh ảnh để hỗ trợ học tiếng Việt, nhắc nhở các em nghe đài, xem ti vi và trao đổi nội dung nghe, đọc được với người thân, với bạn bè, thầy cô giáo hoặc nhân viên hỗ trợ giáo viên. Ở môi trường cộng đồng, giáo viên cần vận động cộng đồng giao tiếp với học sinh bằng tiếng Việt, phối hợp với các đoàn thể để tổ chức tốt các hoạt động tập thể cho các em học sinh .
Bên cạnh đó phối hợp với đoàn Thanh niên, hội Phụ nữ xây dựng các câu lạc bộ đọc sách tại thôn bản, hướng dẫn cha mẹ trẻ tạo dựng môi trường tiếng Việt tại nhà và tăng cường giao tiếp với trẻ. Tổ chức cho các em mẫu giáo 5 tuổi giao lưu với học sinh tiểu học, tham gia ngày hội nói tiếng Việt; phối hợp với hội phụ huynh, già làng trưởng bản sưu tầm các tác phẩm văn học dân gian (truyện thơ, sử thi, câu đố, các bài hát ru…) của người dân tộc thiểu số để dùng trong các nhà trường; khuyến khích phụ huynh, các tổ chức đóng góp đồ dùng, đồ chơi, vật dụng sinh hoạt địa phương để sử dụng trong hoạt động TCTV.
Như vậy với việc tuyên truyền, phổ biến sâu rộng mục đích, ý nghĩa và sự cần thiết của Đề án tăng cường Tiếng Việt đã nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên, các bậc cha mẹ học sinh và cộng đồng đối với việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ em vùng DTTS góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, chất lượng cuộc sống và phát triển bền vững các DTTS, đóng góp vào sự tiến bộ, phát triển của kinh tế xã hội tại địa phương.
Khó tuyển giáo viên, Quảng Nam đề nghị hạ thấp tiêu chuẩn tuyển dụng
Tỉnh Quảng Nam cho biết, địa phương có đến 9 huyện miền núi, đang trong tình trạng có chỉ tiêu, nhưng không tuyển được giáo viên, đề nghị có những quy định mở riêng để khắc phục khó khăn trong tuyển dụng.
Đây là đề xuất được ông Trần Văn Tân, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam đưa ra tại Hội nghị trực tuyến ngành Giáo dục năm 2020.
Phát biểu tại hội nghị, ông Trần Văn Tân cho biết, tỉnh Quảng Nam đã và đang thực hiện sắp xếp, quy hoạch lại mạng lưới trường lớp và đội ngũ giáo viên, nhân viên. Quá trình sắp xếp, sáp nhập đã giảm 47 trường, 301 điểm trường và hơn 2000 biên chế. Chủ trương của địa phương trong sáp nhập trường học là ở đâu có học sinh thì ở đó có giáo viên, nhất là các địa bàn miền núi chứ không tiến hành sắp xếp cơ học nên đã nhận được sự đồng thuận cao.
Một điểm trường ở huyện miền núi Quảng Nam. Ảnh: Tiền Phong
Ông Tân cũng cho biết, Quảng Nam sẽ tổ chức thi tuyển giáo viên hằng năm để bổ sung giáo viên kịp thời.
"Tuy nhiên, đề nghị Bộ GD-ĐT và Bộ Nội vụ hạ thấp tiêu chuẩn, tiêu chí tuyển dụng để giải quyết khó khăn về nguồn tuyển. Với vùng đồng bào dân tộc miền núi thì giáo viên của bậc học mầm non có trình độ trung cấp là được rồi, tiểu học nên là giáo viên có trình độ cao đẳng. Quảng Nam có 9 huyện miền núi nên rất mong Bộ có quy định mở riêng đối với miền núi, khắc phục tình trạng số lượng đăng ký thi tuyển giáo viên thấp hơn chỉ tiêu tuyển dụng do khó khăn về nguồn tuyển", ông Tân kiến nghị.
Cũng theo lãnh đạo tỉnh Quảng Nam, hiện tỉnh đang xây dựng Đề án phát triển giáo dục miền núi, trong đó có sự đầu tư đặc biệt đến đội ngũ giáo viên, cấp dưỡng trường học bên cạnh sự đầu tư cơ sở vật chất, trường lớp.
Tuyển dụng giáo viên tránh những câu hỏi mang tính trả bài
Năm học 2019 - 2020, Quảng Nam được xem là địa phương có những đột phá trong tuyển dụng, thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học sư phạm xuất sắc để nâng cao chất lượng đội ngũ giỏi cho ngành giáo dục.
Sở GD-ĐT Quảng Nam đã thực hiện công tác xét tuyển đối với sinh viên xuất sắc theo Nghị định 140/NĐ-CP ngày 05/12/2018 của Chính phủ về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ. Công tác xét tuyển được thực hiện một cách công khai, khách quan, công bằng đúng quy định.
Đã có 20 sinh viên xuất sắc được tuyển dụng và bố trí giảng dạy tại 2 trường THPT chuyên của tỉnh là trường THPT Chuyên Nguyễn Bỉnh Khiêm, THPT Chuyên Lê Thánh Tôn (TP Hội An) và THPT Tiểu La (Thăng Bình), THPT Sào Nam (Duy Xuyên).
Đây là những giáo viên đang dạy hợp đồng tại các trường THPT của Quảng Nam, tốt nghiệp ĐH Sư phạm loại xuất sắc; kết quả học tập và rèn luyện các năm đại học đạt loại xuất sắc; khi học THPT từng là học sinh giỏi cấp quốc gia hoặc cấp tỉnh; có người đoạt giải trong kỳ thi Olympic sinh viên và có tình yêu với nghề giáo.
Thầy Phan Văn Chương, Hiệu trưởng trường THPT Chuyên Nguyễn Bỉnh Khiêm cho biết: "Những giáo viên được tuyển dụng theo Nghị định 140 được đào tạo bài bản, có quá trình học tập và rèn luyện có kết quả xuất sắc từ phổ thông đến đại học, ngoài trình độ chuyên môn thì tin học và ngoại ngữ đều vững, có tình yêu nghề và khát vọng cống hiến. Đây chính là nguồn nhân lực quan trọng góp phần xây dựng đội ngũ giáo viên chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của trường chuyên".
Tuy nhiên, theo như ông Hà Thanh Quốc, Giám đốc Sở GD-ĐT Quảng Nam thì tiêu chí của Nghị định 140 là quá cao khi áp dụng đối với ngành sư phạm. "Trên thực tế, SV tốt nghiệp xuất sắc mỗi trường chỉ có vài người. Đó là chưa kể có thêm tiêu chí giải Ba học sinh giỏi tỉnh hay giải Khuyến khích quốc gia trở lên", ông Quốc nhận xét.
Chính vì vậy, để tuyển dụng được người giỏi cho nghề sư phạm, ông Quốc cho rằng, trong thi tuyển viên chức, cần phải có những câu hỏi mang tính chất phân hóa, làm sao để các ứng viên thể hiện được năng lực của mình, chứ không chỉ đơn thuần là những câu hỏi mang tính chất trả bài.
Trong năm học 2019 - 2020, Quảng Nam tiếp tục đầu tư phát triển hai trường THPT chuyên của tỉnh để góp phần tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Công tác nghiên cứu khoa học để nâng cao chất lượng đào tạo đã được chú trọng; khuyến khích nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tham gia nghiên cứu, đào tạo sau đại học để đáp ứng ngày càng tốt hơn công tác quản lý, chỉ đạo của ngành. Đến nay, toàn ngành có 6 tiến sĩ, 296 thạc sỹ./.
Kon Tum: Hội nhập quốc tế trong giáo dục Năm học 2019-2020, ngành giáo dục tỉnh Kon Tum đạt nhiều thành tựu trong nâng cao chất lượng giáo dục, đặc biệt đối với học sinh DTTS. Bên cạnh đó, tỉnh duy trì, nâng cao hội nhập quốc tế trong giáo dục. Giáo viên và học sinh trường Tiểu học xã Đăk Hà (huyện Tu Mơ Rông, Kon Tum). Năm học 2019-2020, toàn...