Tầm nhìn và chiến lược tổng thể phát triển giáo dục đại học
Tầm nhìn và chiến lược tổng thể phát triển giáo dục đại học được Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ chia sẻ tại Hội thảo giáo dục 2018: Giáo dục đại học – Chuẩn hóa và hội nhập quốc tế do Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội phối hợp với ĐHQG thành phố Hồ Chí Minh tổ chức ngày 17/8.
Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ phát biểu tại Hội thảo giáo dục 2018: Giáo dục đại học – Chuẩn hóa và hội nhập quốc tế
Kế hoạch tổng thể mang tầm chiến lược phát triển giáo dục ĐH
Khẳng định tầm quan trọng của giáo dục đại học, tại hội thảo, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ nhấn mạnh cần tạo ra một khuôn khổ pháp lý theo cách tiếp cận là kế thừa những cái tốt, phù hợp với Việt Nam, nhưng phải tiếp cận với quốc tế. Giáo dục đại học phải hướng đến chuẩn hóa và hội nhập quốc tế.
Theo Bộ trưởng, muốn nâng cao chất lượng giáo dục đại học có rất nhiều việc phải làm. Có việc phải làm ngay, giải quyết những vấn đề trước mắt; có việc phải khắc phục vấn đề do lịch sử để lại; nhưng cũng phải tạo thời lượng đủ lớn để nghĩ về phía trước. Khi chúng ta có kế hoạch tổng thể mang tầm chiến lược về phát triển giáo dục đại học, thì những vấn đề đang vướng sẽ giảm đi rất nhiều.
Bộ trưởng chia sẻ, Bộ GD&ĐT đã phối hợp với Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, các chuyên gia trong nước và quốc tế, trong đó có chuyên gia của Ngân hàng thế giới đến từ nhiều nước xây dựng Chiến lược tổng thể phát triển giáo dục ĐH Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2035. Ba chủ đề của hội thảo về năng lực hệ thống giáo dục đại học; tài chính đại học; quản lý nhà nước và quản trị đại học cũng bám rất chắc vào 3 trụ cột của Chiến lược trên.
Tự chủ không có nghĩa là cắt ngân sách
Nhấn mạnh quản lý nhà nước phải thay đổi, xu hướng bỏ chế độ chủ quản là tất yếu, Bô trưởng cho rằng, muốn bỏ chế độ chủ quản, Hội đồng trường phải mạnh, đăc biệt là trường công lập. Hội đồng trường phải là thiết chế quyết định những vấn đề lớn chiến lược, quy hoạch, nhiệm vụ lớn của nhà trường; trong đó có vấn đề về học thuật, mở ngành, quy mô, tài chính và giám sát…
Video đang HOT
Lưu ý tự chủ không có nghĩa là cắt ngân sách nhà nước mà ngân sách sẽ cấp theo theo hướng chuyển từ cấp phát sang giao nhiệm vụ hoặc đặt hàng, Bộ trưởng làm rõ: Với những nguồn nhân lực mà Chính phủ cần, Chính phủ sẽ tính toán định mức và đặt hàng, đặc biệt ngành khoa học xã hội, khoa học cơ bản, nghệ thuật… Còn nhân lực khác theo phân khúc thị trường, doanh nghiệp cần, trường đại học cần tính đến phân khúc đó… Tóm lại, ai dùng người đó trả tiền. Riêng nhà nước, cấp tiền không phải cấp theo đề án, dự án mà cấp theo kết quả đầu ra, theo định hướng đầu tư của Chính phủ.
Tới đây, Bộ GD&ĐT chỉ đạo rất mạnh, thành viên chủ Hội đồng trường, Chủ tịch Hội đồng trường phải xứng đáng theo yêu cầu, không phải là cơ cấu… Chúng ta cũng phải rất quan tâm đến trách nhiệm giải trình. Bởi khi trách nhiệm giải trình chưa thực sự minh bạch thì tự chủ không thực hiện được.
Liên quan đến vấn đề tài chính và đầu tư, theo Bộ trưởng, về tài chính đại học, chúng ta mới bàn nhiều về thu học phí sinh viên. Dù điều này cũng quan trọng, nhưng để phát triển một đại học bền vững, tự chủ được bền vững thì chúng ta không quá đi sâu về học phí, còn rất nhiều các dịch vụ khác.
Thậm chí trường tư, bình đẳng được thể hiện thông qua đấu thầu, trường tư tốt, đấu thầu được các dự án nghiên cứu tốt, dùng tiền ngân sách. Như vậy, khu vực công, tư cạnh tranh về chất lượng. Chúng ta không nên phân biệt quá trường công tư về mặt sở hữu, nhưng khi nói về chất lượng thì có cạnh tranh.
Vấn đề thứ 3 Bộ trưởng nhắc tới là cung cầu nhân lực, thực chất là quan hệ đại học với doanh nghiệp. Đây là nền tảng không chỉ tạo ra nguồn thu tài chính mà còn nâng cao năng lực nghiên cứu.
Bộ trưởng cho rằng, ở một chừng mực nào đó, các doanh nghiệp như là bệnh viện của trường y, là phòng thí nghiệm của trường đại học. Sinh viên phải được thực tập, thực tế trong quy trình. Điều này không mới với nhiều nước, với Việt Nam cũng không phải mới hoàn toàn, tuy nhiên chưa nhiều.
Nhấn mạnh phải đi từ tầm nhìn và chiến lược tổng thể, những nội dung trên phải được pháp điển hóa bằng sửa Luật Giáo dục, Bộ trưởng tin tưởng, với “Chiến lược tổng thể phát triển giáo dục ĐH Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2035, trong giai đoạn 2020-2030, giáo dục đại học Việt Nam sẽ dần đi vào nền nếp theo cách tiếp cận hệ thống và hội nhập.
Theo giaoducthoidai.vn
4 định hướng, giải pháp quan trọng cho giáo dục đại học Việt Nam
Tại Hội thảo Giáo dục 2018: Giáo dục đại học - chuẩn hóa và hội nhập quốc tế tổ chức hôm nay (17/8), Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Văn Phúc đã chia sẻ những kết quả cũng như hạn chế của giáo dục đại học Việt Nam, từ đó đưa ra định hướng, giải pháp nhằm phát triển giáo dục đại học trong thời gian tới.
Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Văn Phúc phát biểu tại hội thảo
Đánh giá của Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc, giáo dục đại học Việt Nam đã phát triển nhanh, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng đa dạng.
Hiện nay, cả nước có 236 trường đại học, học viện và 41 viện nghiên cứu khoa học được phép đào tạo trình độ tiến sĩ. Số sinh viên học trong các trường đại học là 1.439.495 em, chiến 84%; số sinh viên ngoài công lập là 267.530, chiếm 16%. Số lượng giảng viên ĐH tăng nhanh trong thời gian vừa qua, trong đó có số giảng viên đạt trình độ tiến sĩ. Số lượng ngành trình độ đào tạo đại học cũng tăng, từ 2.118 năm 2007 lên 3394 năm 2017. Số lượng chương trình đào tạo đại học cũng tăng mạnh.
Sơ đồ người học trong giáo dục ĐH Việt Nam hiện nay
Văn hóa chất lượng bước đầu hình thành ở các cơ sở giáo dục đại học. Công tác đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng được đẩy mạnh nhăm nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Nghiên cứu khoa học, công bố quốc tế đã được chú trọng, xếp hạng quốc tế được cải thiện. Đổi mới, đẩy mạnh tự chủ đại học bước đầu thu được kết quả tích cực.
Cụ thể, số lượng công bố quốc tế của Việt Nam (theo cơ sở dữ liệu Web of Science) tăng 2,5 lần so sánh năm 2016 với năm 2011. Nếu so sánh với giai đoạn 2011-2015, số bài báo khoa học được công bố trên tạp chí thuộc danh mục ISI của các nhà khoa học của top 20 trường ĐH Việt Nam trong năm học 2016-2017 đã tăng hơn 2 lần.
Công bố quốc tế tăng nên xếp hạng đại học của Việt Nam cũng có cải thiện. Việt Nam đã có 2 ĐH nằm trong top 1000 của thế giới; 5 cơ sở giáo dục đại học nằm trong top 350 Châu Á (theo xếp hạng QS).
Về kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học, đến tháng 8/2018, chúng ta đã có 217 trường đã hoàn thành báo cáo tự đánh giá, 123 trường đã được đánh giá ngoài, 117 trường được công nhận đạt kiểm định. Có 5 trường đại học của Việt Nam đạt kiểm định của tổ chức quốc tế HCERES; 2 trường đạt kiểm định bởi AUN-QA.
Về kiểm định chương trình đào tạo: Có 10 chương trình đã được công nhận đạt kiểm định theo chuẩn Việt Nam; 116 chương trình được kiểm định theo chuẩn quốc tế...
Tuy nhiên, những thách thức cũng được đặt ra với giáo dục đại học Việt Nam liên quan đến việc thực hiện tự chủ đại học; thách thức với chất lượng đào tạo để đáp ứng sự đòi hỏi cao hơn và sự thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế, cách mạng công nghiệp 4.0. Nghiên cứu khoa học ở các cơ sở giáo dục đại học còn chưa được quan tâm đúng mức và kết quả nghiên cứu, chuyển giao công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn; công bố quốc tế còn thấp so với các nước phát triển trong khu vực Đông Nam Á. Năng lực quản trị, quản lý của các cơ sở giáo dục đại học chưa theo kịp yêu cầu của phát triển giáo dục đại học và hội nhập quốc tế.
Đưa định hướng và giải pháp cho giáo dục đại học trong thời gian tới, Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc nhấn mạnh việc thể chế hóa (sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục đại học và các quy định liên quan) để đổi mới căn bản và toàn diện. Cùng với đó là nâng cao năng lực hệ thống giáo dục đại học; đổi mới cơ chế tài chính đại học; đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục đại học.
Giáo dục đại học còn nhiều tiềm năng, nhưng quản lý nhà nước phải đổi mới kịp thời để đáp ứng nhu cầu phát triển này. Từ đó, Thứ trưởng tin tưởng, khi thay đổi cơ chế chính sách kịp thời, tạo động lực đúng đắn sẽ tạo bước đột phá trong phát triển giáo dục đại học.
Theo giaoducthoidai.vn
"Các trường đại học không thể tự nhận trường tốt, trường lớn được" Việc hội nhập quốc tế của giáo dục đại học là cả một quá trình dài để ta xác định đâu là chuẩn, đâu là điều kiện mà chúng ta phải phấn đấu, không phải là câu chuyện ngày một ngày hai. Các trường không thể tự nhận là trường tốt, mà phải dựa vào đánh giá của các tổ chức kiểm định...