Sĩ tử thời xưa
Thi cử đã xuất hiện ở VN từ gần 1.000 năm rồi, kể từ khoa thi đầu tiên năm Ất Mão 1075 đời Lý. Vậy thì ông cha mình đã tổ chức việc thi cử như thế nào? Sĩ tử học hành, ứng thí ra sao? Trường thi ngày xưa như thế nào? Việc chấm thi và công bố kết quả? Trường thi có xảy ra sự cố như bây giờ không?…
Độc giả hãy cùng chúng tôi lùi lại quá khứ để tìm hiểu về chuyện thi cử dưới thời Nguyễn, là triều đại kế thừa nền tảng khoa cử từ các thời trước và xây dựng thành hệ thống khoa cử hoàn chỉnh nhất.
Chúng tôi trở lại Văn Miếu (Huế) vào một ngày cuối tháng 6, nắng hè như đổ lửa. Bên trong nhà thờ các vị học trò Khổng Tử thì râm mát hơn nên các cô cậu thí sinh vào tránh nắng để tranh thủ ôn bài.
Bên ngoài sân, một vài vị du khách đang lúi húi với những dòng chữ Nho trên hàng bia tiến sĩ. Có lẽ họ đang đi tìm dấu tích của tiền bối đã đỗ đạt dưới thời Nguyễn.
Thí sinh ngày đó học gì?
Bắt đầu là học chữ Nho với các thầy đồ (gọi là sơ học), với các sách Tam thiên tự, Tam tự kinh, Hiếu kinh, Ấu học quỳnh lâm…
“…Các bậc thánh đế minh vương không ai không lấy việc nuôi nấng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, bồi đắp nguyên khí làm việc ưu tiên…”. Đó là những dòng trong bài văn bia nổi tiếng khắc trên tấm bia tiến sĩ đầu tiên dựng tại Văn Miếu (Hà Nội) ghi tên những tiến sĩ khoa thi năm 1442 dưới triều Lê. Muốn chọn hiền tài tất phải thông qua thi cử. Triều Nguyễn cũng kế tục và phát triển quan điểm đó.
Lớn lên chừng 10 tuổi bắt đầu làm quen những sách kinh điển của Nho giáo, như bộ Tứ thư (Đại Học, Luận Ngữ, Mạnh Tử, Trung Dung), lần lần đến Ngũ kinh (Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân thu), rồi Bắc sử (sử Trung Quốc), Nam sử (sử nước ta).
Ngoài ra, còn phải đọc sách của Bách gia chư tử, tức sách của các triết gia Trung Quốc thời cổ đại học thêm Đường thi, Tống thi, các áng văn tiêu biểu trong lịch sử Trung Quốc và Việt Nam nghiền ngẫm những bài văn sách danh tiếng qua các đời…
Đó là nội dung cơ bản của việc học. Tất thảy phải thuộc lòng, quên một chữ là phải tìm thầy để hỏi. Thử hình dung một khối lượng khổng lồ tri thức như vậy, hoàn toàn bằng chữ Hán, việc học gian nan biết chừng nào, hẳn sĩ tử phải học bằng quyết tâm sống còn mới có thể ra trường thi.
Nhưng kiến thức trên mới là phần cứng, còn làm bài thi lại là một sự vận dụng linh hoạt, đòi hỏi tài năng sáng tạo. Việc hành văn thì từ nhỏ đã tập viết, tập làm thơ. Khi đã thông làu kinh sử thì tập viết những bài văn. Khi bước chân vào kỳ hạch (khảo khóa, tức sơ khảo) ở địa phương, các thể loại kinh, văn sách, thi phú, văn tứ lục (tức các loại văn bản hành chính: chiếu, biểu…) thí sinh đã phải tường tận lắm rồi mới mong vượt được kỳ sơ khảo này.
Không quy định tuổi tác
Vì điều kiện dự thi không hạn định tuổi tác nên trẻ dưới hai mươi, già trên năm mươi đều có thể ứng thí. Cha con cùng đi thi, có trường hợp 82 tuổi vẫn còn đi thi như thí sinh Đoàn Tử Quang ở Hà Tĩnh năm 1900 (độc giả sẽ đọc thấy trong kỳ sau).
Trước kỳ thi hương tối thiểu là ba tháng phải tổ chức kỳ khảo khóa để sơ tuyển những người đủ tư cách và trình độ đi thi. Sau đó, lập danh sách trình lên trên để chuẩn bị kỳ thi hương. Người nào qua được kỳ khảo khóa này được gọi là thầy khóa (hay còn gọi là khóa sinh) chưa phải là học vị gì nhưng như thế cũng đã oai lắm rồi. Tuy nhiên, qua được kỳ khảo khóa, muốn dự thi hương phải còn xem xét một số tiêu chí ràng buộc về mặt hành chính mà ta quen gọi là “lý lịch” trong thi cử.
Video đang HOT
Lều và chõng tre cho thí sinh ngồi làm bài – Ảnh tư liệu
Rất xem trọng đạo đức thí sinh
Trước thời gian thi bốn tháng, những thí sinh muốn dự thi phải ghi danh tại lý trưởng của làng để xem xét tư cách.
Nhà Nguyễn quy định những trường hợp sau không được dự thi:
Đang chịu tang cha hoặc mẹ, hoặc đang chịu tang ông bà nội mà đương sự là người phải lo việc thờ phụng. Những người bất hiếu, bất mục (không hòa thuận với anh em), gian dâm, bạo tàn.
Thân thuộc với những người phạm tội đã bị chém, giảo (thắt cổ), đi đày, sung quân (dù những người này đã được tha về)… thì không được ứng thí. Trường hợp người thân phạm tội nhẹ hơn thì được xem xét.
Thân thuộc với giặc. Điều luật này chia làm bốn khoản quy định từ nặng đến nhẹ và mức độ thân thuộc. Nếu giặc là chánh yếu phạm, tức mang những chức tước cao nhất, không kể đã bị xét xử hay chưa, dù đã chết hay đã ra đầu thú được khoan dung, thì từ con cho đến cháu, chắt cùng những người chịu tang từ chín tháng trở lên (giả định người làm giặc chết đi) đều không được dự thi. Nếu kẻ chịu án thuộc hàng thứ phạm, chỉ mang chức tước nhỏ thì con, cháu cùng những người chịu tang trong một năm không được dự thi, kể cả khi đã ra đầu thú hoặc lập công chuộc tội được giảm miễn. Nếu là kẻ tòng phạm can tâm theo giặc nhưng không có chức tước hoặc chức tước nhỏ thì con và cháu không được dự thi. Nếu kẻ tòng phạm đã ra đầu thú, lập công chuộc tội đã được giảm án thì cháu được đi thi. Nếu là kẻ tòng phạm nhưng bị giặc ức hiếp phải theo chẳng có chức tước gì thì con không được đi thi nhưng cháu trở xuống đều được đi thi.
Người theo tả đạo (đạo Thiên Chúa) bị cấm dự thi, nhưng ra khỏi đạo thì cho dự thi. Phụ nữ bị cấm tiệt không được dự thi.
Đã vào trường thi là bình đẳng
Ngoài ra, triều đình còn quy định những người ngoại tỉnh đến trú ngụ học thi phải về thi tại quê quán, trừ những người theo cha ông đi trấn nhậm ở xa. Trong quyển thi (tức bài thi, đóng bằng giấy bổi) của mình, trang đầu tiên ngoài tên tuổi, quê quán và nơi học tập, thí sinh phải ghi rõ phần cung khai tam đại (kê khai ba đời) về ông cố, ông nội, cha: nghề nghiệp, còn sống hay đã chết.
Tất nhiên, không thể man khai, vì chính quyền sở tại đã nắm vững lý lịch của thí sinh từ khi tham dự kỳ khảo khóa. Đến khoa thi hương cuối cùng năm 1918, quy định thí sinh phải dán ảnh.
Nếu đã phạm vào những quy định trên thì chắc chắn không được dự thi, nhưng nếu đã có quyền dự thi thì tất cả thí sinh đều hoàn toàn bình đẳng, không có tầng lớp nào bị đối xử nghiệt ngã hay được ban đặc quyền đặc lợi.
Trong suốt 143 năm tồn tại, triều Nguyễn tổ chức 39 khoa thi hội, lấy đỗ 293 vị tiến sĩ, chỉ có duy nhất một người trong hoàng tộc (dòng họ nhà vua) đỗ đại khoa, đó là ông Tôn Thất Lĩnh, đỗ tiến sĩ khoa Kỷ Sửu (1889) triều Thành Thái.
Ngoài ra, trên các bia tiến sĩ chỉ thấy lác đác vài người xuất thân là ấm sinh, ấm tử (con của quan lại từ hàng tam phẩm trở lên, được học trong trường QuốcTử Giám), còn lại đại đa số là con em giới bình dân.
Theo tuổi trẻ
Sĩ tử ngồi xe lăn khiến hội đồng thi cảm động
Một mắt, một tay, một chân... hình ảnh Hồ Văn Lai tại trường thi đã khiến bất kỳ ai cũng bồi hồi, cảm phục. Ngay sau buổi thi đầu tiên, nhà trường đã quyết định đặc cách cho em vào đại học.
Sĩ tử đi "ứng thí" bằng xe lăn
Sĩ tử ngồi trên xe lăn có nghị lực phi thường đến từ tỉnh Quảng Trị này là Hô Văn Lai (SN 1990), môt thí sinh bị thương tật do tai nạn bom mìn. Lai ngồi trên xe lăn với sự giúp đỡ của bố, đã làm nhiều sĩ tử và người nhà tại điêm thi Trường THPT Trân Phú, TP. Đà Nẵng xúc đông và cảm phục.
Sĩ tử xe lăn Hồ Văn Lai và bố sau buổi thi chiều 4/7 tại điểm thi Trường THPT Trần Phú
Để giúp đứa con thực hiện giấc mơ cháy bỏng của mình, bố của Lai - ông Hô Văn Hanh đã khăn gói từ vùng quê biển nghèo cát trắng gió Lào vượt hành trình gần 20 km lên Bến xe TP. Đông Hà (tỉnh Quảng Trị) để lên xe đò, đi thêm gần 200 km đưa con trai vào Đà Nẵng thực hiện giấc mơ đại học.
Ít ai biết được rằng, để thực hiện được giấc mơ vào đại học cháy bỏng của mình, nhiều năm qua, với nghị lực phi thường của mình, cậu học trò từng là nạn nhân của bom mìn chiến tranh đã đấu tranh, nỗ lực không biết mệt mỏi.
Ông Hồ Văn Hanh đưa sĩ tử xe lăn Hồ Văn Lai về phòng trọ sau buổi thi chiều 4/7
"Lai khi ấy đang là học sinh lớp 4 đang cùng với 3 người anh em họ đi chơi đùa trên bãi cát thì giẫm phải bom mìn, 2 trong số đó tử vong tại chỗ, một bị thương nhẹ, còn Lai cũng chịu hậu quả rất nặng.
Mặc dù Lai được người dân địa phương kịp thời đưa vào trạm xá xã Gio Việt cấp cứu trước khi chuyển lên Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Trị, rồi chuyển vào Bệnh viện Trung ương Huế chữa trị, nhưng quả bom ác nghiệt kia đã lấy đi của em gần như cả đôi chân và 1 cánh tay, 1 con mắt... Cánh tay phải còn lại của em cũng bị thương tật hết sức nặng nề", ông Hanh rơm rớm nước mắt kể.
Để thực hiện được giấc mơ vào đại học cháy bỏng của mình, từ nhiều năm trước đã là một chặng đường dài đầy gian khó mà chỉ với nghị lực phi thường của mình, cậu học trò là nạn nhân của bom mìn chiến tranh ấy đã nỗ lực không biết mệt mỏi để có thể vượt qua.
Sau 4 năm tích cực chữa trị vật lý trị liệu và luyện tập phục hồi chức năng, Lai đã có thể tiếp tục trở lại trường làng trên xe lăn. Với nghị lực phi thường và kết quả học tập tích cực của mình, Lai được vào học tại Trường THPT Lê Lợi tại TP.Đông Hà, cách nhà gần 20 cây số. Cả 3 năm học Lai đều đạt học lực loại khá.
Chắp cánh cho con vào đại học
Mặc dù cuộc sống gia đình khăn, đang thuộc diện hộ cận nghèo của xã, nhưng ông Hanh vân cố gắng nỗ lực lao động và vay mượn ngân hàng để 5 đứa con (3 trai, 2 gái) được ăn học đên nơi đên chôn.
Hiên tại 3 đứa con của vợ chồng ông đã tôt nghiêp đại học. Trong đó có em tốt nghiệp Trường ĐH Thủy sản Nha Trang, đã là kỹ sư chế biến ở Bà Rịa Vũng Tàu, một em tốt nghiệp ĐH Sư phạm, đang là giáo viên cấp 3 ở TP. HCM và một em học Bách khoa Đà Nẵng, hiện làm việc ở Hà Tĩnh.
Lai cho biết ước mơ lớn nhất của em là vào đại học
Cậu con út (em của Lai) cũng là sinh viên Trường Cao đẳng Công nghệ Việt. Cả 3 người con đã tốt nghiệp vẫn lo làm lụng để có tiền phụ giúp bố mẹ nuôi các em ăn học và trả nợ, nên chưa ai lập gia đình.
"Đứa nào cũng chăm lo học hành nên vợ chồng tôi phải cố gắng chắp cánh ước mơ cho con" - ông Hanh nghẹn ngào nói.
Trong ngày thi đầu tiên, ông Hanh báo tin vui là "sáng nay được một thầy giáo ở Đại học Đà Nẵng cho biết Lai sẽ được xét đặc cách vào đại học".
Biết được tin này ông hạnh phúc vì ước mơ của con đang thành hiện thực, nhưng cũng ngổn ngang những nỗi lo phía trước về nơi ăn chốn ở, đi lại của con trong những năm tháng sống xa nhà...
"Lai có thể đi lại bằng đôi chân giả trong đoạn đường ngắn, còn lại phải cậy vào xe lăn. Tay của Lai cũng chỉ cử đông và làm được những viêc nhẹ phục vụ cho cá nhân. Ba năm THPT Lai đã phải thuê nhà trọ học nhưng Lai chưa bao giờ có ý nản lòng và tôi tin và ý chí và nghị lực của con", ông Hanh cho biết.
AN KỲ
Theo Infonet
Ước mơ trở thành chuyên viên máy tính của thí sinh "tí hon" Vừa bước ra khỏi cổng trường thi, thí sinh "tí hon" Nguyễn Đại Triển, cao chưa đầy 1,3m, dự thi vào Khoa Công nghệ thông tin, Trường ĐH Quảng Bình, tự tin trước ống kính phóng viên: "Chắc em làm được khoảng 60%...". Em Nguyễn Đại Triển là học sinh lớp 12C8, Tường THPT Nguyễn Hữu Cảnh, huyện Quảng Ninh (Quảng Bình). Là...