Phục hồi nhanh, doanh nghiệp đang ‘khát’ vốn
Tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đang cho thấy sự hồi phục mạnh mẽ với tốc độ tăng 8,51%.
Tính đến ngày 20/6, gấp 2,8 lần so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, không ít doanh nghiệp vẫn “than” thiếu vốn.
Kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng cao góp phần vào phục hồi và phát triển kinh tế. Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN
Khó đáp ứng điều kiện gói vay lãi suất 2%
Bà Phí Thị Hương Nga, Vụ phó Vụ Thống kê Công nghiệp – Xây dựng (Tổng cục Thống kê – TCTK) cho biết: Cùng với sự phục hồi của nền kinh tế, trong 6 tháng đầu năm nay, số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường lần đầu tiên vượt mốc 100.000 doanh nghiệp (116.900 doanh nghiệp), tăng 25,4% so với cùng kỳ năm 2021 và gấp 1,4 lần số doanh nghiệp rút khỏi thị trường.
Đáng chú ý, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong 6 tháng đầu năm nay là 76.200 doanh nghiệp, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm 2021, gấp 1,2 lần so với mức trung bình giai đoạn 2017 – 2021 (trên 64.000 doanh nghiệp). “Những con số này phần nào cho thấy niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp đã dần trở lại sau 2 năm dịch COVID-19 bùng phát”, bà Phí Thị Hương Nga nhận xét.
Trong bối cảnh kinh tế phục hồi nhanh nhưng “bão giá” xăng dầu và giá nguyên liệu, rất nhiều doanh nghiệp mong mỏi cần thêm vốn để khôi phục sản xuất, tiếp tục triển khai dự án, mở rộng hoạt động kinh doanh.
Tuy nhiên, việc tiếp cận các nguồn vốn vay cũng không hề dễ dàng khi các ngân hàng hết hạn mức tăng trưởng tín dụng (room) để giải ngân. Chưa kể theo quy định, để tiếp cận hỗ trợ, doanh nghiệp phải có doanh thu, có lợi nhuận, có tài sản bảo đảm, không có nợ xấu… Hiện nhiều doanh nghiệp chịu ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch nên gần như không thể đáp ứng các yêu cầu này.
“Nếu điều kiện đặt ra là doanh nghiệp không có nợ đang được cơ cấu, nợ xấu mới được tiếp cận chính sách hỗ trợ này thì sẽ rất khó khăn”, bà Lê Thị Thương, Công ty CP Đào tạo và Du lịch Việt Nam quan ngại.
Còn ông Nguyễn Thanh Hải, Phó Giám đốc Công ty Du lịch Viettourist than thở: “Do không có tài sản thế chấp nên nhiều doanh nghiệp du lịch phải vay tín chấp với lãi suất khoảng 13 – 14%/tháng để khôi phục hoạt động. Với mức lãi suất cao sẽ khiến doanh nghiệp du lịch không có lãi May trang phục xuất khẩu ở Công ty Cổ phần thương mại May Việt Thành, Khu công nghiệp Giao Long, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. trong bối cảnh hiện nay. Nếu được tiếp cận chính sách hỗ trợ lãi suất 2% từ ngân sách Nhà nước (NSNN), chúng tôi sẽ giảm bớt áp lực tài chính về nguồn vốn tín dụng và việc khôi phục lại hoạt động cũng nhanh hơn”.
Hiện doanh nghiệp không chỉ thiếu vốn mà là khát vốn để tiếp tục mua nguyên liệu đầu vào nhằm duy trì hoạt động sản xuất – kinh doanh, nhất là lương thực, thực phẩm đóng vai trò quan trọng tới giá cả, kiểm soát lạm phát. “Chúng tôi kiến nghị các ngân hàng có chính sách đánh giá lại giá trị tài sản thế chấp để nâng hạn mức giải ngân, giúp doanh nghiệp có thêm nguồn vốn đặc biệt với những đơn vị làm ăn tốt”, bà Lý Kim Chi, Chủ tịch Hội Lương thực thực phẩm TP Hồ Chí Minh cho biết.
Ngăn chặn các sai phạm, trục lợi chính sách
Video đang HOT
Cộng đồng doanh nghiệp đang mong được tiếp cận sớm gói hỗ trợ lãi suất 2% với những ưu đãi như tiết giảm điều kiện và được giải ngân sớm để đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, sớm thoát khỏi khó khăn sau đại dịch.
Đề cập về rủi ro khi triển khai gói hỗ trợ vay vốn ưu đãi, chuyên gia kinh tế, TS Lê Xuân Nghĩa cho rằng: Có thể sẽ phát sinh rủi ro đạo đức của nhân viên ngân hàng khi tăng mặt bằng lãi suất cho vay, rồi sau đó giảm 2% lãi suất làm giảm hiệu lực của chương trình tài trợ. “Nhưng trong bối cảnh hiện nay, các doanh nghiệp đều khan hiếm vốn thì cơ quan thanh tra giám sát của NHNN cần lưu ý, giám sát các ngân hàng tăng lãi suất cho vay không bình thường dựa trên hệ số NIM, thanh khoản… để phát hiện ra những ngân hàng có ý đồ trục lợi”, TS Lê Xuân Nghĩa cho biết.
Tuy nhiên nhiều chuyên gia kinh tế cũng bày tỏ lo ngại: Một rủi ro cũng cần chú ý đó là gói hỗ trợ lãi suất ra đời không còn nhiều dư địa thời gian trong bối cảnh xu thế toàn cầu lạm phát cao, thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất, tác động trực tiếp đến Việt Nam thông qua các chỉ số kinh tế vĩ mô (lạm phát, tăng trưởng). Việt Nam đang đi ngược xu thế của thế giới nên nếu không kiểm soát tốt sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu kiểm soát lạm phát.
Theo chuyên gia kinh tế – TS Trần Du Lịch, những doanh nghiệp làm ăn tốt nhưng bị ảnh hưởng dịch, nay trong giai đoạn phục hồi cũng được tiếp sức qua chương trình kết nối ngân hàng và doanh nghiệp tại TP Hồ Chí Minh. Cụ thể, trong 6 tháng đầu năm, chương trình đã giải ngân được khoảng 93.000 tỷ đồng, cho thấy sự hiệu quả và tầm quan trọng của chương trình là nắn dòng vốn vào đúng khu vực sản xuất – kinh doanh, vào các doanh nghiệp đang cần vốn để phục hồi sản xuất.
“Tuy nhiên, việc kết nối này còn chậm so với tốc độ khôi phục và mở rộng sản xuất của doanh nghiệp, vì vậy chương trình kết nối này cần khôi phục và đẩy nhanh tốc độ hơn. Đối với các nhà quản lý cần khảo sát lại nhu cầu vốn của từng doanh nghiệp từ đó có những hỗ trợ đa đạng, linh hoạt tùy theo nhu cầu của những doanh nghiệp đang khát vốn đến đâu mà hỗ trợ kịp thời”, TS Trần Du Lịch nói.
Trong khi đó, theo TS Cấn Văn Lực – thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, mỗi năm nền kinh tế tăng trưởng tín dụng 14 – 15%, là con số cao nhất khu vực, điều này chứng tỏ nguồn vốn không khó tiếp cận. Tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ làm sao để doanh nghiệp có thể chủ động hơn trong việc tìm kiếm nhiều nguồn vốn khác nhau ngoài nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Ví dụ, doanh nghiệp có thể tìm kiếm nhiều nguồn tài trợ vốn từ Chương trình phục hồi kinh tế, xã hội giai đoạn 2022 – 2023 của Nhà nước với quy mô gần 350.000 tỷ đồng. Một số doanh nghiệp ở những lĩnh vực, ngành nghề khó khăn, khó đáp ứng điều kiện tín dụng ngân hàng có thể tính đến giải pháp thuê tài chính, tài trợ chuỗi cung ứng.
“Doanh nghiệp cũng có thể nghiên cứu mô hình đầu tư, huy động vốn mới từ vốn cộng đồng, từ công ty tài chính công nghệ (fintech) trong bối cảnh công nghệ số thay đổi nhanh chóng. Tham gia các chương trình tài chính xanh hoặc cơ hội huy động vốn từ nước ngoài như phát hành trái phiếu, vay vốn trong bối cảnh uy tín, vị thế của Việt Nam đang lên, xếp hạng tín nhiệm triển vọng tích cực…”, TS Cấn Văn Lực cho biết.
Phó Thống đốc thường trực NHNN Đào Minh Tú cho biết: NHNN đã yêu cầu các đơn vị trong ngành khẩn trương hỗ trợ đúng đối tượng, đúng mục đích, đặc biệt ngăn chặn các sai phạm, rủi ro, trục lợi chính sách.
“NHNN sẽ sử dụng các công cụ điều hành, tăng cường thanh tra, giám sát, phối hợp giữa các bộ, ngành, chính quyền địa phương để triển khai chương trình hỗ trợ lãi suất đạt hiệu quả. Nghị định 31 NĐ-CP đã quy định rất rõ các cơ chế giám sát, thể hiện trách nhiệm cao của ngành ngân hàng để đảm bảo gói hỗ trợ lãi suất 2% tới đúng đối tượng, minh bạch, không để trục lợi. Nếu không đúng đối tượng ưu đãi, NHNN sẽ thu hồi”, ông Đào Minh Tú nhấn mạnh.
Tận dụng cơ hội từ Chương trình phục hồi kinh tế
Để góp phần đưa nền kinh tế sớm vượt qua khó khăn sau 2 năm chịu tác động nặng nề bởi dịch COVID-19 và không lỡ nhịp với tiến trình phục hồi kinh tế toàn cầu, ngày 30/1/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình (Nghị quyết 11).
Để có góc nhìn tổng quan, đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong việc triển khai chương trình này, phóng viên TTXVN đã có cuộc phỏng vấn Tiến sĩ Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV).
Một điểm nhà ở xã hội của tỉnh Bình Dương. Ảnh minh họa: Huyền Trang/TTXVN
Ông đánh giá như thế nào về ý nghĩa của Chương trình trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong năm nay và các năm tiếp theo?
Đây là một chương trình toàn diện và quy mô gần như lớn nhất trong lịch sử được thông qua, đóng vai trò và ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2022 nói riêng và trong cả giai đoạn 2021-2025.
Nếu không có chương trình này sẽ không thể giúp cho tiến trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội được đẩy nhanh và bền vững. Như vậy thì khó có thể thực hiện được các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế từ 6,5% đến 7% như Đại hội Đảng và Quốc hội đã đề ra. Có chương trình này sẽ giúp cho doanh nghiệp và người dân sớm vượt qua những thách thức, khó khăn trong và sau đại dịch. Qua đó tạo thêm niềm tin để hoạt động sản xuất kinh doanh được tốt hơn.
Đây cũng là điều kiện để Việt Nam nâng cao được năng lực y tế; nhất là y tế cơ sở và y tế dự phòng - vốn dĩ đã và đang bộc lộ nhiều bất cập trong quá trình dịch bệnh. Chương trình phục hồi còn nhắm tới việc tăng cường thu hút đầu tư để cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng vốn là 1 trong 3 đột phá chiến lược mà Đại hội Đảng và Nghị quyết của Quốc hội đã đề ra hồi đầu nhiệm kỳ.
Cuối cùng là chương trình tập trung rất lớn vào vấn đề an sinh xã hội; trong đó, đặc biệt là nhà ở cho công nhân và nhà ở xã hội - vốn là điểm yếu đã bộc lộ rõ trong giai đoạn dịch bệnh vừa qua.
Tôi cho rằng, 5 nhiệm vụ trọng tâm của chương trình cộng với cam kết về cải cách thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh để tăng khả năng hấp thụ và thu hút đầu tư để thúc đẩy sản xuất kinh doanh và tiến trình phục hồi của doanh nghiệp và nền kinh tế theo chiều hướng tích cực, nhanh, hiệu quả và bền vững. Nếu làm tốt và tận dụng được cơ hội, tôi cho rằng nền kinh tế không chỉ phục hồi và đảm bảo các chỉ tiêu tăng trưởng GDP như đã định mà còn có thể tăng trưởng thêm 1,5 đến 2 điểm phần trăm/năm trong 1 tới 2 năm tới.
Sản xuất công nghiệp trong quý I năm 2022 ước tính tăng 7,07% so với cùng kỳ năm trước. Ảnh: Tuấn Anh/TTXVN
Ông nhìn nhận những giải pháp đưa ra để thực hiện việc hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế nhanh chóng hồi phục như thế nào?
Chương trình phục hồi kinh tế tập trung triển khai các chính sách tài khóa là cơ bản, với giá trị ước tính khoảng 83% trên tổng giá trị chương trình bao gồm hỗ trợ về an sinh xã hội, hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi, đầu tư cơ sở hạ tầng và nâng cao năng lực y tế. Rõ ràng có thể nhận thấy, chương trình đã được thiết kế công phu, bài bản và đạt được sự đồng thuận cao từ Quốc hội, Chính phủ với mỗi người dân, nên tôi hy vọng về quá trình thực thi sẽ được hướng dẫn cụ thể để đạt hiệu quả tích cực.
Thực tế cũng có một số quan ngại về các chính sách tài khóa tiền tệ khi thực hiện Chương trình phục hồi kinh tế - xã hội sẽ khiến vượt trần nợ công, bội chi ngân sách... Tuy điều đó là tất yếu nhưng thực tế vấn đề này đã được Quốc hội bàn thảo, chấp nhận mức độ bội chi ngân sách năm nay và năm tới trong khoảng 1% đến 1,2% so với GDP và thâm hụt ngân sách sẽ ở mức 5% GDP.
Đó có thể xem là mức chấp nhận được và thấp hơn rất nhiều so với mức bình quân của toàn cầu là 10% hay so với các nước mới nổi hoặc đang phát triển như Việt Nam. Nợ công cũng có thể tăng thêm nhưng vẫn sẽ ở ngưỡng an toàn. Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ chắc chắn cũng sẽ tăng, thậm chí sẽ có thời điểm vượt ngưỡng 25% nhưng quan trọng hơn đó là điều cần thiết phải làm trong bối cảnh đòi hỏi sự phục hồi nền kinh tế và đời sống người dân một cách nhanh chóng nhất sau đại dịch.
Nhân viên siêu thị Thành phố Hồ Chí Minh cung ứng hàng hóa lên quầy, kệ phục vụ người dân mua sắm. Ảnh: Mỹ Phương/TTXVN
Để cân bằng giữa việc hỗ trợ phục hồi kinh tế và chủ động đối phó với áp lực lạm phát và áp lực nợ xấu gia tăng, theo ông nên lựa chọn giải pháp gì?
Nên lưu ý lạm phát năm nay trên toàn cầu hay ở Việt Nam đều chủ yếu xuất phát từ phía nguồn cung, tức là do chi phí này. Từ việc chiến tranh giữa một số quốc gia cho đến dịch bệnh... đã tác động rất lớn tới chuỗi cung ứng và gây nên sự gián đoạn, ách tắc.
Đặc biệt cuộc chiến giữa Nga và Ukraine đã đẩy giá năng lượng, nguyên vật liệu tăng, chi phí vận tải cũng tăng cao khiến Việt Nam phải nhập siêu. Đây cũng là nguyên nhân đã đẩy giá dầu tăng cao ở mức dự kiến khoảng 30%-40% trong năm nay. Điều đó chắc chắn sẽ ảnh hưởng lớn tới tăng trưởng kinh tế và gia tăng lạm phát.
Theo tính toán kịch bản tăng trưởng, nếu giá dầu tăng 30% - 40% thì tăng trưởng của Việt Nam dự kiến sẽ chịu ảnh hưởng và giảm từ 1,1 - 1,3 điểm phần trăm và lạm phát sẽ bị đẩy lên 0,8 - 1 điểm phần trăm. Như vậy, tăng trưởng sẽ ở mức khả quan là từ 5,7 - 6% và lạm phát có thể là 4% hoặc có thể cao hơn ở một số thời điểm.
Bài toán đặt ra là phải làm sao để kiểm soát tốt lạm phát. Theo tôi, một là phải làm tốt giữa chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách giá cả để đảm bảo các yếu tố vĩ mô khác nhằm tránh tình trạng bùng phát lạm phát. Thứ hai là phải cố gắng điều tiết và bình ổn giá xăng dầu vì đó là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng tới lạm phát trong năm nay. Các bộ, ngành, Chính phủ cũng đã đưa ra một số dự kiến kế hoạch, giải pháp để kiểm soát giá xăng dầu, tuy nhiên, cần phải làm mạnh hơn nữa, tránh hiện tượng găm hàng trục lợi, nâng giá ở các cơ sở kinh doanh; hạn chế tốt hơn nữa tình trạng nhập lậu xăng dầu và đa dạng hóa để đảm bảo nguồn cung cả ở trong nước và ngoài nước. Cuối cùng là cần sự phối hợp để điều chỉnh giá xăng dầu tránh tình trạng gián đoạn.
Khu tái định cư Lộc An - Bình Sơn (Dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư Cảng hàng không Quốc tế Long Thành). Ảnh minh họa: Công Phong/TTXVN
Đầu tư công chiếm phần lớn nguồn lực của gói chính sách hỗ trợ phục hồi kinh tế 350.000 tỷ đồng, tuy nhiên, đây cũng là một lĩnh vực tập trung rất nhiều khó khăn trong triển khai nhiệm vụ của Chương trình phục hồi phát triển kinh tế - xã hội. Vậy theo ông, để thực hiện việc thúc đẩy đầu tư công, chúng ta cần tập trung vào đâu?
Gói chính sách này sẽ dành khoảng 113.000 tỷ đồng để giúp cho đầu tư cơ sở hạ tầng - một trong những đột phá chiến lược quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Về cơ bản những giải pháp triển khai là tương đối khả thi vì về cách làm lần này có địa chỉ, dự án tương đối cụ thể và linh hoạt trong việc điều phối vốn. Thực tế năm nay, các địa phương và các bộ, ngành cũng đã vào cuộc quyết liệt hơn để có được chương trình, dự án, hồ sơ triển khai trong năm nay và sang năm tới.
Ngoài ra về phía địa phương cũng cần có sự chủ động một phần nguồn vốn chứ không hoàn toàn dựa vào nguồn vốn từ Chương trình. Cùng đó, là việc đôn đốc thực hiện, kiểm tra và giám sát quá trình thực thi để đảm bảo đạt kết quả, tạo sự chuyển biến tích cực.
Thêm nữa, chính bản thân doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cần sự chủ động tìm hiểu và tiếp cận với Chương trình phục hồi kinh tế - xã hội của Chính phủ; chủ động chuẩn bị các hồ sơ cần thiết phù hợp với những nhóm, ngành chính của doanh nghiệp trong danh mục hỗ trợ của chương trình. Nếu chỉ ngồi 1 chỗ để mà kêu thì không bao giờ có cơ hội tiếp cận chương trình.
Các bộ, ngành, địa phương thì càng sớm càng tốt phải ban hành những hướng dẫn chi tiết, cụ thể nhưng không quá khó để doanh nghiệp có thể tiếp cận được.
Cuối cùng là cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin giúp cho việc triển khai quá trình này giảm bớt được các thủ tục hành chính, đảm bảo tính công khai minh bạch nhất là sau đại dịch.
Tuy nhiên, vì là giai đoạn thử nghiệm nên chắc chắn sẽ xảy ra 1 tỷ lệ nhỏ những sai sót, chứ không thể cầu toàn đòi hỏi chất lượng hoàn hảo 100%. Như thế sẽ tạo áp lực và sự nghi ngại của doanh nghiệp, sự khó khăn cho các bộ, ngành và địa phương khiến cho Chương trình được thực hiện khó đảm bảo hiệu quả.
Trân trọng cám ơn ông!
Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2021: Phát triển nhân lực có kỹ năng nghề để thích ứng với trạng thái bình thường mới Tiếp tục chương trình Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2021, chiều 5/12, phiên chuyên đề 2 với chủ đề "Bảo đảm an sinh xã hội và nguồn cung lao động trong quá trình phục hồi kinh tế" đã diễn ra với sự tham gia của đại diện các bộ, ngành, chuyên gia trong và ngoài nước. Đẩy nhanh đào tạo, bồi dưỡng...