Phát triển TTCK dần thay thế tín dụng trung và dài hạn
Phát triển thị trường chứng khoán là điều kiện tất yếu để nền kinh tế giảm dần lệ thuộc vào tín dụng ngân hàng, đặc biệt là các nhu cầu vốn trung, dài hạn.
Sáng 2/5, tại phiên hiến kế Vốn – Tài chính cho nền kinh tế trong khuôn khổ Diễn đà Kinh tế tư nhân Việt Nam 2019, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), ông Đào Minh Tú đã đề cập sự mất cân đối giữa kênh cung ứng vốn ngân hàng và thị trường vốn.
Theo ông Tú, nhu cầu vốn trung, dài hạn của doanh nghiệp để mở rộng và phát triển sản xuất, kinh doanh rất lớn, nhưng thị trường vốn chưa phát triển đủ cả về quy mô và chất lượng để có thể đáp ứng. Do đó, vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu vẫn phải dựa vào hệ thống ngân hàng, tín dụng trung dài hạn chiếm tỷ trọng khá lớn (khoảng 50,6% tổng dư nợ).
Lãnh đạo NHNN cho biết cơ quan này sẽ phối hợp với Bộ Tài chính và các bộ, ngành liên quan đẩy mạnh cơ cấu lại và phát triển nhanh, bền vững các phân đoạn thị trường tài chính; tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân huy động vốn trên thị trường chứng khoán…
Ông Đào Minh Tú, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ảnh: VnExpress.
Thừa nhận thực trạng nền kinh tế tạo áp lực quá lớn đến hệ thống các tổ chức tín dụng, ông Nguyễn Quốc Hùng, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết có 3 nguyên nhân dẫn đến sự mất cân bằng.
Thứ nhất, phía doanh nghiệp chưa có báo cáo kế hoạch kinh doanh dài hạn, việc quen thói quen sử dụng vốn dài hạn và xây dựng các kế hoạch phát triển dài hạn. doanh nghiệp chưa có kế hoạch dẫn đến ảnh hưởng lâu dài. Thứ hai, doanh nghiệp còn ngại công bố thông tin, báo cáo thông tin tài chính chưa được rõ ràng, gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng. Thứ ba, doanh nghiệp chưa đáp ứng được điều kiện phát hành trái phiếu, thiếu vắng các nhà đầu tư chuyên nghiệp mang tính lâu dài, tính thanh khoản của trái phiếu chưa cao, chưa có các tổ chức xếp hạng tín dụng tạo điều kiện cho doanh nghiệp và các nhà đầu tư. Thông tin chưa được minh bạch, công khai, chỉ tập trung vào trái phiếu chính phủ, bảo lãnh…
Theo ông Hùng, giải pháp xử lý vấn đề là rà soát, khuyến khích, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, hiện đại hóa công nghệ thông tin, sớm hình thành công ty xếp hạng tín nghiệm đủ năng lực. Doanh nghiệp cần nâng cao năng lực tài chính, quản trị điều hành, có kế hoạch sản xuất kinh doanh dài hạn, có lộ trình đủ lớn, tập trung vào phát triển vốn thông qua phát hành trái phiếu.
Đồng quan điểm này, ông Phạm Hồng Sơn, Phó Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đề cập, các doanh nghiệp lấy tiền vay ngân hàng để phát triển nguồn vốn thì gặp nhiều rủi ro nên việc huy động vống qua chứng khoán có thể hạn chế điều này. Tuy nhiên, phát hành trái phiếu doanh nghiệp hiện là thị trường mới, non trẻ.
Video đang HOT
Ông Phạm Hồng Sơn,Phó Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Ảnh: VNExpress.
Về giải pháp, ông nhấn mạnh Bộ Tài chính đang chỉ đạo để Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội xây dựng cổng thông tin để các doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Bộ cũng đệ trình Luật chứng khoán sửa đổi tạo ra khung pháp lý hoàn chỉnh.
Đồng tình với ý kiến của ông Sơn, ông Đỗ Ngọc Quỳnh – Tổng thư ký Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam nhận thấy sự thay đổi của thị trường chứng khoán là tích cực, từ năng lực doanh nghiệp đến nhà đầu tư… Tuy nhiên, ông cho rằng việc hình thành kênh trái phiếu cho doanh nghiệp là mục tiêu xa vời. Bởi các doanh nghiệp muốn phát hành trái phiếu phải đạt mực độ tín nhiệm nhất định cũng như trình độ phát triển tốt. Doanh nghiệp vừa và nhỏ khó đáp ứng yêu cầu này.
Ông Đỗ Ngọc Quỳnh, Tổng thư ký Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam. Ảnh: VnExpress.
Một trong những điều kiện doanh nghiệp định hướng nhiều nhất là cơ chế phát hành. Theo ông Quỳnh, tư duy xây dựng luật trái phiếu dường như đang đi theo mô hình phát hành cổ phiếu. Việt Nam đang áp điều kiện quá chặt với doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, đại diện Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam cho rằng cần thiết phải hình thành ủy ban làm việc liên bộ trong thị trường trái phiếu. Ông Quỳnh dẫn chứng mô hình cơ quan liên bộ tại Indonesia, Malaysia giúp giải quyết các vấn đề kịp thời theo tháng và cho rằng Việt Nam cần có cơ chế định kỳ tương tự.
Lê Hải
Theo Người đồng hành
Tiền gửi tiết kiệm lên tới 139% GDP, cần có chính sách khuyến khích chuyển tiền nhàn rỗi trung dài hạn sang thị trường vốn
Trong hệ thống ngân hàng tiền gửi tổ chức và cá nhân đạt quy mô lên tới 139% GDP, trong đó 79% GDP là tiền gửi của tổ chức, làm sao phải có giải pháp dịch chuyển phần tiết kiệm trung và dài hạn của người dân ngay tại hệ thống ngân hàng sang thị trường vốn.
Tại phiên thảo luận về "Khơi thông tín dụng dài hạn và thúc đẩy phát triển thị trường TPDN tại Việt Nam" nằm trong khuôn khổ diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam 2019 do Chính phủ và Ban Kinh tế Trung ương đồng chủ trì và chỉ đạo tổ chức, ông Nguyễn Quốc Hùng, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế của NHNN đã đưa ra thực trạng mất cân đối giữa thị trường tín dụng và thị trường cổ phiếu.
Mất cân đối giữa ngân hàng và thị trường vốn
Ông Hùng cho biết tỷ lệ đầu tư vốn trung dài hạn là 50,6%, dư nợ đạt khoảng 130% GDP trong khi quy mô thị trường cổ phiếu 2018 đạt 91% GDP, quy mô thị trường trái phiếu đạt trê 39% GDP trong đó dư nợ trái phiếu chính phủ đạt 30% GDP và trái phiếu DN đạt 8,6% GDP như vậy nền kinh tế vẫn phụ thuộc chủ yếu vào các tổ chức tín dụng. Điều này cho thấy áp lực của các TCTD rất lớn gây ra sự mất cân bằng về nguồn vốn đặt biệt là nguồn vốn trung dài hạn.
Ông Nguyễn Quốc Hùng
Theo ông Hùng, một số nguyên nhân chính dẫn đến sự mất cân bằng trên thị trường vốn.
Thứ nhất, một số DN có kế hoạch kinh doanh dài hạn chủ động việc sử dụng vốn và huy động vốn, tuy nhiên còn nhiều DN chưa có kế hoạch dài hạn nên vẫn có thói quan sử dụng vốn vay dài hạn. DN ngại công bố thông tin và tình hình tài chính chưa minh bạch gây khó khăn cho các TCTD. Thứ ba, các Dn chưa đáp ứng đủ điều kiện về phát hành trái phiếu.
Về phía NĐT, chưa xuất hiện các nhà đầu tư chiến lược mang tính dài hạn. Ngoài ra các nguyên nhân khác như tính thanh khoản trên thị trường trái phiếu chưa cao, chưa có công ty xếp hạng tín nhiệm để tạo điều kiện cho nhà đầu tư tham gia đầu tư trái phiếu DN. Cơ sở hạ tầng thông tin cho TPDN chưa đầy đủ, dẫn tới các NĐT chưa quan tâm đến thị trường trái phiếu DN.
Theo ông Hùng, cần phải hoàn thiện cơ chế chính sách phát triển thị trường trái phiếu, phát triển hệ thống công bố thông tin và xây dựng các công ty xếp hạng tín nhiệm đủ năng lực. Về phía Dn phải nâng cao năng lực tài chính, có kế hoạch sản xuất kinh doanh dài hạn có lộ trình huy động vốn. NHNN sẽ phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ và tài khóa để thúc đẩy TTCK nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng.
Ông Phạm Hồng Sơn, TTCK bắt đầu vận hành năm 2000, từ năm 2010 đến 2018 tăng trưởng bình quân khoảng 25%/năm, thời điểm 2010 quy mô TTCK đạt 52,5% GDP và quy mô thị trường tín dụng là 110% GDP, đến cuối 2018 TTCK đã đuổi gần kịp thị trường tín dụng (110% GDP so với 130% GDP quy mô của thị trường tín dụng). Khoảng cách 10 năm qua đã thu hẹp rất lớn. Mặc dù 10 năm qua thị trường có nhiều sóng gió. UBCK đã phải báo cáo Bộ Tài chính và Chính phủ nhiều giải pháp để ổn định TTCK.
Ở một số nước, TTCK phát triển trước rồi cơ quan quản lý mới đưa ra khung pháp lý để quản lý thị trường, còn ở Việt Nam cơ quan quản lý "như một bà đỡ" xây dựng từ đầu để đảm bảo ngay từ đầu phát triển bền vững. Hiện nay có trên 1.000 DN giao dịch và niêm yết đây là con số lớn, các DNNN cổ phần hóa rất nhiều, huy động vốn qua phát hành cổ phiếu rất tốt trong thời gian qua. NHTM phát triển từ năm 1960, còn thị trường trái phiếu rất non trẻ. Các DN ý thức rằng huy động vốn qua TTCK tốt hơn nếu muốn huy động vốn trung và dài hạn trong khi vay ngân hàng để thực hiện các dự án trung dài hạn thì rủi ro hơn. Các DN tốt vẫn huy động được qua TTCK.
Về giải pháp, ông Sơn cho biết Sở chứng khoán Hà Nội sẽ xây dựng cổng thông tin về trái phiếu DN, UBCK nhận định TPDN là kênh quan trọng huy động vốn trong thời gian tới. Luật Chứng khoán sửa đổi xây dựng khung pháp lý nếu TPDN phát hành riêng lẻ chỉ cho nhà đầu tư tổ chức và NĐT chuyên nghiệp, vì nhóm nhà đầu tư này nhận thức được rủi ro, nếu trái phiếu phát hành ra công chúng phải có công ty định mức tín nhiệm.
Số liệu chênh lệch về quy mô thị trường trái phiếu
Ông Cấn Văn Lực: ADB cho rằng quy mô thị trường TPDN đạt 2% GDP nhưng con số của UBCK và NHNN đưa ra chỉ đạt 8,6%, tại sao có con số chênh lệch này?
Theo bà Phạm Thị Thu Hiền, Vụ trưởng Vụ tài chính các ngân hàng và tổ chức tài chính, có sự khác biệt giữa cơ quan quản lý NN và ADB vì theo quy định pháp luật có 2 hình thức phát hành trái phiếu (riêng lẻ và ra công chúng), kênh thông tin về TPDN chỉ bắt đầu từ tháng 2/2019, trong khi ADB chưa cập nhật số liệu về phát hành riêng lẻ.
Chia sẻ về công ty định mức tín nhiệm, bà Hiền cho biết Bộ Tài chính, cơ sở pháp lý về công ty định mức tín nhiệm đã được ban hành từ 2016 nhưng nếu không có cầu thì sẽ không có cung. TPDN là kênh huy động trung và dài hạn thì phải đảm bảo tính công khai minh bạch và vai trò của công ty định mức tín nhiệm rất quan trọng. Thời gian qua UBCK đã làm việc với các ban ngành sửa Luật CK để tách bạch việc phát hành TP ra công chúng bắt buộc phải có định mức tín nhiệm đồng thời phải niêm yết. Điều kiện phát hành riêng lẻ có nới lỏng hơn nhưng giới hạn cho tổ chức và NĐT chuyên nghiệp, NĐT đặt ra điều kiện cho DN phát hành khi huy động vốn phải có định mức tín nhiệm thì có thể mua cao hơn so với mức thông thường.
Cần có giải pháp dịch chuyển tiết kiệm của người dân sang thị trường vốn
Về sự mất cân đối giữa thị trường tín dụng và thị trường vốn, TTCK dù có tốc độ tăng trưởng 25%/năm nhưng quy mô vẫn còn nhỏ. Tổng tài sản hệ thống NH là 199% GDP, ngành bảo hiểm 7% GDP, ngành công nghiệp quản lý quỹ hiện nay mới đạt 17% GDP, có sự chênh rất lớn giữa 3 ngành này. Trong hệ thống ngân hàng tiền gửi tổ chức và cá nhân đạt quy mô lên tới 139% GDP, trong đó 79% GDP là tiền gửi của tổ chức làm sao phải có giải pháp dịch chuyển phần tiết kiệm trung và dài hạn của người dân ngay tại hệ thống ngân hàng sang thị trường vốn.
Có nhiều kỳ vọng "hơi sai" về thị trường trái phiếu
Ông Đỗ Ngọc Quỳnh, Tổng thư ký Hiệp hội thị trường trái phiếu Việt Nam, sự phát triển của thị trường trái phiếu thời gian qua rất ấn tượng so với các nước trong khu vực. Có nhiều kỳ vọng đang 'hơi sai" về thị trường trái phiếu. Thực tiễn tại thị trường phát triển, không phải DN nào cũng huy động được trái phiếu, các DN phải phát triển đến một mức độ tín nhiệm nhất định mới huy động vốn được qua trái phiếu, thị trường trái phiếu tại Malaysia đạt 70% GDP nhưng đa phần tập trung vào DN lớn. Một số người cho rằng sao không để doanh nghiệp start up phát hành trái phiếu? Tôi cho rằng việc này dành cho các quỹ hedge fund.
Ông Quỳnh cho biết vẫn còn một số khúc mắc về luật, quy định yêu cầu DN phải có 3 năm liền không có khoản nợ quá hạn gốc và lãi mới được phát hành TP trong khi Nghị định 63 cho phép huy động trái phiếu để cơ cấu nợ, điều này là bất cập. Chúng ta đang áp dụng quy định của thị trường cổ phiếu sang cho trái phiếu. Việc phát hành trái phiếu cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp đã hiểu rõ về rủi ro, nên không cần thiết phải siết chặt quy định như vậy. Quan trọng nhất là minh bạch thông tin, hãy để thị trường định giá rủi ro của DN. Hiện nay doanh nghiệp phải "2A" mới được phát hành trái phiếu trong khi nhiều doanh nghiệp có người mua nhưng không được phép phát hành.
Về định mức tín nhiệm, Bộ Tài chính mong muốn có 2 công ty cạnh tranh trên thị trường, chúng ta có thể tạo văn hóa về định mức tín nhiệm. Tại Hàn Quốc và Malaysia giai đoạn đầu bắt buộc phát hành trái phiếu phải xếp hạng tín nhiệm, họ mất 20 năm để hình thành văn hóa đã đi vay phát hành trái phiếu phải định mức tín nhiệm để tăng tính minh bạch thị trường. Đây là một "trade off" (đánh đổi) cần thiết. Chúng ta sẽ kích thích các nhà đầu tư chuyên nghiệp, có năng lực vào thị trường trái phiếu. Hiện nay các NH đang mua hết trái phiếu DN và "ôm" từ đầu đến cuối thì điều này không đạt mục tiêu của chúng ta.
Tâm An
Theo Trí thức trẻ
Để thị trường chứng khoán trở thành kênh huy động vốn chủ lực cho nền kinh tế Thực tế thời gian qua cho thấy, nền kinh tế và doanh nghiệp vẫn còn phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn vay ngân hàng, điều này gây nhiều hệ lụy. Thị trường chứng khoán đã đạt được những thành tựu đáng kể, dần thể hiện vai trò là kênh huy động vốn trung và dài hạn của nền kinh tế, tuy nhiên, cấu...