Phải sắp xếp lại giáo dục đại học
Điều gì xảy ra khi bùng nổ số lượng mà chất lượng không theo kịp? Làm sao để nâng cao chất lượng giáo dục ĐH trong cảnh số lượng ĐH “trăm hoa đua nở”?
Từ câu chuyện bùng nổ số lượng trường đại học (ĐH) và những hệ lụy mà Tuổi Trẻ phản ánh trong nhiều số báo tuần qua,Tuổi Trẻ ghi nhận sau đây ý kiến của cán bộ quản lý ngành giáo dục, các lãnh đạo trường ĐH, giảng viên, sinh viên về vấn đề này và mời bạn đọc bàn luận thêm.
Được thành lập từ năm 1995 nhưng suốt thời gian qua, hầu hết cơ sở giảng dạy của Trường ĐH Hùng Vương TP HCM phải đi thuê mướn. Cuối năm 2013, những mâu thuẫn nội bộ bùng phát dữ dội khi “hai phe” đến trường tranh chấp quyền kiểm soát cơ sở của trường thuê trên đường Nguyễn Trọng Tuyển, quận Tân Bình. Ảnh: Tuổi Trẻ.
* GS Phạm Minh Hạc (Chủ tịch Hội Cựu giáo chức Việt Nam, nguyên bộ trưởng Bộ GD&ĐT): Có trường giảng viên toàn đi mượn hoặc giả
Nhìn lại lịch sử, những năm đầu đổi mới, cả nước chỉ có 12 vạn sinh viên, nhưng nay số lượng sinh viên đã tiến gần đến 2 triệu người. Tôi đã nói với anh em làm giáo dục cần nghiên cứu hình tháp giáo dục nhưng không có ai làm cả. Phải dựa vào trình độ phát triển kinh tế của mình, nhu cầu nhân lực của mình để phát triển quy mô giáo dục ở từng trình độ cho phù hợp.
Điều cực kỳ quan trọng với việc mở trường, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo chính là người thầy. Nhưng sự thật như tôi biết có trường ĐH chỉ có mỗi một ông tiến sĩ, mà không về ngành chuyên môn cụ thể nào, chỉ là tiến sĩ về quản lý giáo dục, danh sách giảng viên còn lại chỉ toàn là đi mượn hoặc thậm chí là… danh sách giả mà trường vẫn đủ điều kiện lập ra. Như vậy làm sao có chất lượng được?
Cũng phải nói thêm rằng số lượng trường nhiều, chất lượng đào tạo không như kỳ vọng không phải là câu chuyện cá biệt của Việt Nam. Một số nước vấp phải tình hình tương tự, nhưng họ đã có giải pháp và Việt Nam phải cân nhắc thấu đáo cách làm của họ.
Một là những trường nào quá kém cần thiết phải giải thể. Bộ GD&ĐT cũng đã từng dừng tuyển sinh hàng trăm ngành đào tạo ĐH, sau ĐH không đảm bảo chất lượng. Hai là sáp nhập các trường yếu và củng cố nó hoặc đưa một số trường mới thành lập kém quá hợp nhất vào những trường đã trưởng thành, có thương hiệu.
Gần đây, Hội Cựu giáo chức Việt Nam đã có văn bản góp ý với văn kiện Đại hội Đảng XII, trong đó chúng tôi đã kiến nghị phải sắp xếp lại hệ thống giáo dục ĐH, bao gồm cả trường ĐH và CĐ.
TS Nguyễn Văn Phúc (Hiệu trưởng ĐH quốc tế Miền Đông): Thuê mướn cơ sở vật chất, giảng viên thì khó có chất lượng
Chất lượng đào tạo của một trường ĐH phụ thuộc vào nhiều yếu tố căn bản như triết lý đào tạo cần phải tường minh, cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên, chương trình đào tạo, tiện nghi phục vụ sinh viên phải đạt chuẩn.
Nếu căn cứ vào điều này thì chúng ta thấy còn có trường ĐH phải thuê mướn cơ sở vật chất, đội ngũ chưa mạnh, thiếu các cơ sở tiện nghi phục vụ sinh viên, chương trình đào tạo cũ kỹ… Trong bối cảnh đó, việc đào tạo ĐH sẽ khó có chất lượng.
Hiện nay, nhiều người học bằng mọi cách phải vào ĐH, phải có bằng ĐH mà không quan tâm xem trường đó chất lượng thế nào. Động cơ học tập không rõ ràng, việc vào ĐH chủ yếu để có bằng chứ không thật sự quan tâm đến ngành nghề và kiến thức làm việc sau này. Điều này dẫn đến việc trường mở vẫn cứ mở, tuyển vẫn cứ tuyển, người học vẫn cứ vào và bài toán chất lượng giáo dục ĐH vẫn còn tiếp tục ngổn ngang.
* PGS. TS Trương An Hoàng (giảng viên Trường ĐH Công nghệ – ĐH Quốc gia Hà Nội): Hạn chế các trường tìm cách “qua cửa”
Video đang HOT
Điều kiện mở trường của Việt Nam nếu so với nhiều nước không hề dễ dãi hơn. Tuy nhiên, điều kiện này cần phải được kiểm soát trong cả quá trình vận hành của trường, chứ không phải là chỉ lúc mở.
Việc này hạn chế các trường tìm cách “qua cửa” rồi sau đó không thể thực hiện và duy trì được điều kiện đảm bảo chất lượng, đặc biệt về đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất. Khi trường không đủ điều kiện, phải dừng tuyển sinh, còn những người học đang học thì cần tìm giải pháp cho họ hoàn thành chương trình đào tạo ở một cơ sở khác đủ điều kiện.
Thạc sĩ Hoàng Đức Bình (Trưởng bộ môn marketing ĐH Hoa Sen): “Nhân bản” chương trình đào tạo
Thạc sĩ Hoàng Đức Bình
Thời gian qua chúng ta đã chứng kiến sự phát triển quá nóng về mặt số lượng trường ĐH, ngành đào tạo và số lượng chỉ tiêu tuyển sinh. Tuy nhiên, điểm mà ít khi được đề cập nhưng lại rất quan trọng cho đầu ra là các trường đã tổ chức đào tạo thế nào?
Một thực tế khá phổ biến tại nhiều trường ĐH là chương trình đào tạo chính là chương trình khung của Bộ GD&ĐT. Nhiều trường ĐH khác lại có chương trình đào tạo tương tự nhau và có yếu tố “nhân bản” từ một trường có lịch sử thành lập dài hơn. Việc sử dụng chính chương trình khung hoặc “nhân bản” như trên đã cho thấy sự thiếu chủ động hoặc sáng tạo trong việc xây dựng chương trình đào tạo của không ít trường ĐH.
Do phát triển quá nóng, nhiều trường ĐH đã không thể tuyển đủ giảng viên và việc mời thỉnh giảng từ các trường bạn là phổ biến. Trong đào tạo ĐH, việc mời thỉnh giảng là tất yếu nhưng thông thường là để bổ sung tạm thời cho một số nhu cầu giảng dạy ngắn hạn, chuyên môn sâu hoặc chuyên biệt.
Tuy nhiên việc này lại quá phổ biến đối với nhiều trường ĐH tại VN, nhất là với các trường ĐH mới được thành lập và nâng cấp sau này. Việc tuyển sinh không đạt chỉ tiêu cũng kéo theo việc các trường không thể tuyển nhiều giảng viên.
* Nguyễn Thế Hưng (sinh viên lớp chất lượng cao khoa ngữ văn Trường ĐH Sư phạm Hà Nội): Đừng để người học lựa chọn sai lầm
Một người bạn của tôi là á khoa Trường ĐH Ngoại thương tâm sự bạn đạt đến đích đó chỉ với lý do duy nhất Trường ĐH Ngoại thương là trường có điểm chuẩn cao và bạn muốn chứng minh mình học giỏi bằng ngôi đầu bảng của trường mà hoàn toàn không có đam mê gì với ngành học.
Việc nhiều trường mở ra, có thể vào ĐH bằng nhiều cách vô tình lại “tiếp tay” cho người vào ĐH mà không phải cân nhắc gì về đam mê, sở trường… Vào ĐH không phải bằng lựa chọn đam mê thì rất dễ buông bỏ, không chuyên chú học hành. Chất lượng đào tạo vì thế nằm trong tay người học. Người học không tha thiết, không thể có chất lượng.
TS Nguyễn Thị Kim Phụng (Quyền vụ trưởng Vụ Giáo dục ĐH Bộ GD&ĐT): Từ 450 sinh viên/vạn dân còn 260 sinh viên/vạn dân
Trước đây, Việt Nam từng đặt ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 đạt tỉ lệ 450 sinh viên/vạn dân nên đã chủ trương nâng số lượng các trường ĐH, CĐ để thực hiện mục tiêu này. Bắt đầu từ năm 2011, chủ trương trên đã bắt đầu được tính lại và từ năm 2012, việc thành lập mới các trường đã được siết chặt hơn.
Năm 2013, Bộ GD-ĐT đã đề xuất và Thủ tướng Chính phủ đã điều chỉnh quy hoạch mạng lưới các trường ĐH, CĐ theo hướng ổn định số lượng, điều chỉnh mục tiêu đến năm 2020 chỉ còn đạt tỉ lệ khoảng 260 sinh viên/vạn dân; tổng quy mô đào tạo ĐH và CĐ đạt khoảng 2,2 triệu sinh viên, tăng khoảng 1,8% so với năm học 2010 – 2011 và số sinh viên tuyển mới đạt khoảng 560.000 (tăng khoảng 8,2% so với năm 2010).
Đối với những trường lâu nay tuyển sinh khó khăn và thậm chí càng ngày càng khó khăn hơn vì ít người lựa chọn theo học chủ yếu bởi lý do chất lượng. Vấn đề này do rất nhiều nguyên nhân nhưng cũng không thể phủ nhận rằng việc nâng cấp, thành lập nhiều cơ sở giáo dục ĐH trong một thời gian ngắn trước đây là một trong những nguyên nhân của tình trạng không đáp ứng điều kiện đảm bảo chất lượng.
Vì vậy, vấn đề cần giải quyết chính là các biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo, khẳng định uy tín của trường trong từng “sản phẩm” đào tạo của mình, nâng cao năng lực sinh viên và tỉ lệ có việc làm của họ sau đào tạo, chứ hoàn toàn không phải đến mùa tuyển sinh mới đi tìm giải pháp làm thế nào để tuyển sinh được hết chỉ tiêu.
Muốn nâng cao chất lượng đào tạo trước hết phải có chiến lược, giải pháp và kế hoạch cụ thể của từng trường, nhưng đồng thời cũng cần những “cú hích” trong giải pháp tổng thể cho hệ thống giáo dục ĐH.
Đó là tái cơ cấu hệ thống phù hợp với sự phát triển nền kinh tế, phù hợp với nhu cầu của người học, nâng cao chất lượng tổng thể của đội ngũ giảng viên. Đó là tạo cơ chế, điều kiện để các trường tham khảo, nhận chuyển giao các chương trình đào tạo tiên tiến, đã khẳng định được chất lượng và hiệu quả ở nước ngoài, giúp các trường trong việc học tập kinh nghiệm của các nước phát triển xây dựng các chương trình đào tạo có tính ứng dụng cao, để sinh viên có đủ kỹ năng mà thế giới việc làm đang cần bên cạnh kiến thức chuyên môn.
Đó là đổi mới chính sách đầu tư, xác định mức học phí sát với chi phí đào tạo để đảm bảo chất lượng (không cần phải chạy theo số chỉ tiêu tuyển sinh để đảm bảo nguồn thu), thí điểm chính sách tự chủ ở mức độ cao đối với những trường đủ năng lực…
Những giải pháp đồng bộ này đang được áp dụng đối với cả hệ thống giáo dục ĐH.
Bên cạnh đó, Bộ GD-ĐT sẽ tiếp tục thực hiện và nâng cao hơn nữa vai trò quản lý, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện cam kết thành lập trường, rà soát các điều kiện để bảo đảm chất lượng giáo dục ĐH.
Theo Ngọc Hà, Minh Giảng /Báo Tuổi Trẻ
Đại học ngày càng lớn còn sinh viên đang được "thiếu niên hóa"
"Hình như, nhiều người lãnh đạo nhìn sinh viên như những thanh niên mới lớn, không đủ hiểu biết, không đủ điều kiện để tham gia ý kiến và giải quyết các vấn đề như những người lớn khác. Đó là một nghịch lý: Trường đại học ngày càng có vị trí lớn hơn trong đời sống xã hội, còn sinh viên thì đang được "thiếu niên hóa"..."
Đó là bình luận của GS Phạm Tất Dong, Phó Chủ tịch Hội Khuyến học VN trước ý kiến của Nhóm đối thoại giáo dục đưa ra hướng cải cách giáo dục đại học ở Việt Nam" với ước vọng về một nền giáo dục đại học nước nhà lành mạnh và tiến bộ do Giáo sư Ngô Bảo Châu và những người tham gia tổng kết khoa học về hiện trạng giáo dục đại học hiện nay đã gửi đến các nhà lãnh đạo có thẩm quyền một Bản kiến nghị 5 điểm có tính định hướng đổi mới giáo dục đại học mà GS Dong cho là hợp lý, các nhà quản lý giáo dục cần suy nghĩ.
GS Phạm Tất Dong: "Tôi nghĩ rằng, nếu giáo dục đại học ở Việt Nam cứ để lâu trong tình trạng như hiện nay là không ổn".
Hoan nghênh những ý kiến xác đáng của Nhóm đối thoại VED, GS Phạm Tất Dong đã đưa 5 bình luận sâu sắc:
1. Nền giáo dục phổ thông ở nước ta hiện nay còn có quá nhiều điều gây bức xúc trong xã hội, nhưng giả dụ nó được đổi mới và hoàn hảo, thì trong thời đại ngày nay, những tri thức, kỹ năng và thái độ được xây dựng ở các em tốt nghiệp trung học phổ thông cũng chưa thể tạo ra những năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của nền kinh tế nước nhà trên thị trường thế giới đầy năng động và đầy biến cố. Học vấn phổ thông không cho phép các em học sinh trực tiếp tham gia vào các lĩnh vực sản xuất. Với học vấn phổ thông, muốn trở thành người lao động, các em học sinh tốt nghiệp Trung học cơ sở hoặc Trung học phổ thông phải trải qua một quá trình "Nghề nghiệp hóa" tại các hệ thống giáo dục chuyên nghiệp để trở thành những công nhân kỹ thuật, những nhân viên kỹ thuật, những kỹ sư cũng như những chuyên gia ở các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, nghệ thuật, thể dục - thể thao...
2. Trong hệ thống giáo dục chuyên nghiệp, trường đại học phải đóng được vai trò của những "pháo đài" bảo vệ quốc gia, tạo nên lực lượng lao động chất lượng cao trong các lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Muốn sánh vai với các cường quốc về các phương diện khoa học, kỹ thuật, công nghệ, văn hóa... thì phải có trình độ đại học và sau đại học thực sự. Với trình độ hiểu biết phổ thông, không có sự đào tạo chuyên nghiệp thật chất lượng, nhất là đào tạo chuyên nghiệp ở hệ đại học, thì lao động của chúng ta giỏi lắm là đi làm hàng gia công cho nước ngoài. Thiếu lực lượng lao động có trình độ đại học và sau đại học, thiếu một hệ thống trường đại học "lành mạnh và tiến bộ" như Nhóm VED mong muốn thì ta chẳng thể là một nước công nghiệp hiện đại, lại càng không có sức đâu để nói đến một nền kinh tế tri thức mà ta luôn muốn có nó nhằm đẩy nhanh quá trình đi lên của đất nước.
3. Nhóm VED cho rằng, các trường cao đẳng và đại học chưa có lúc nào là "chủ" thực sự trong mọi công việc của mình. Tôi cho là đúng, bởi trường cao đẳng và đại học chưa được tự chịu trách nhiệm về tuyển sinh, về quá trình đào tạo, về sản phẩm đầu ra cũng như về ngân sách của mình.
Tất nhiên, trường học cần được làm chủ thì giáo viên cũng cần được có vai trò làm chủ mà ở đây, VED kiến nghị thành lập NGHỊ TRƯỜNG GIẢNG VIÊN để giảng viên có tiếng nói đối với nhiều vấn đề quan trọng của trường cao đẳng và đại học như đạo đức khoa học, tự do học thuật, tính minh bạch trong tổ chức nghiên cứu khoa học v.v...
Tôi nói rằng, sinh viên cũng cần có nghị trường của mình. Học trong trường, sinh viên không còn là những cô cậu học trò phổ thông, mà là người lớn thực thụ. Mọi vấn đề quan trọng trong xã hội, mọi thông tin mà người lớn cần biết thì sinh viên cũng phải được bình đẳng để tiếp cận.
Ví dụ, nhiều vấn đề chính trị - xã hội cần được đưa vào nhà trường để sinh viên cùng suy nghĩ, cùng trao đổi, bởi rồi trước sau, họ cũng sẽ là người phải tham gia giải quyết những vấn đề ấy. Chẳng hạn, vấn đề biển đảo, vấn đề an ninh con người, vấn đề chủ nghĩa khủng bố và nhà nước tự xưng IS v.v... Tại sao, những nhà lãnh đạo quốc gia không thể tới trường đại học mà trình bày quan điểm để sinh viên cùng chia sẻ, cùng suy ngẫm. Hình như, nhiều người lãnh đạo nhìn sinh viên như những thanh niên mới lớn, không đủ hiểu biết, không đủ điều kiện để tham gia ý kiến và giải quyết các vấn đề như những người lớn khác. Đó là một nghịch lý: Trường đại học ngày càng có vị trí lớn hơn trong đời sống xã hội, còn sinh viên thì đang được "thiếu niên hóa".
4. Vấn đề đặt ra cho hệ thống cao đẳng và đại học ở Việt Nam lúc này, theo tôi, trước hết là phải thực sự đổi mới tư duy trong hoạch định chính sách quốc gia đối với giáo dục đại học và khoa học. Không có giáo dục đại học thì không có khoa học. Không có khoa học thì giáo dục đại học luôn luôn tụt hậu. Cặp phạm trù này luôn song hành, gắn kết với nhau, bổ sung cho nhau và thống nhất với nhau.
Kinh nghiệm của những quốc gia đang muốn có ảnh hưởng lớn trên chính trường là họ luôn coi trọng 3 con bài cơ bản trong bộ bài cầm trên tay: GIÁO DỤC ĐẠI HỌC, NGHIÊN CỨU KHOA HỌC và VỐN CON NGƯỜI. Bộ ba này là công cụ chính trị không thể thiếu được khi muốn có được một năng lực cạnh tranh đủ mạnh trên thị trường và ảnh hưởng quốc gia đối với các nước khác, chí ít là trong khu vực. Muốn xác định một chỗ đứng trong cuộc chiến cạnh tranh và nhất là muốn giành một vị thế cao giữa các quốc gia khác, người Mỹ, Đức, Anh, Nhật... đều dùng chính sách đầu tư mạnh mẽ cho giáo dục đại học và cho nghiên cứu khoa học để có được quyền lực mềm, quyền lực thông minh. Một khi có được chính sách" quyền lực mềm", "quyền lực thông minh" thì đó là điều kiện bảo đảm cho sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế mà không phải tiêu tốn những tài nguyên có giá trị để tăng cường quyền lực "cứng" của quốc gia.
Một sự việc sau đây có thể giúp chúng ta tư duy lại vấn đề giáo dục đại học: Năm 2012, tổ chức OECD có một báo cáo, trong đó nói đến xu hướng tiêu cực của hệ thống giáo dục Đức và sự thua kém của quốc gia này về mấy chỉ số quan trọng so với một số quốc gia khác như tỷ lệ người trong độ tuổi lao động có trình học vấn cao. Để khắc phục tình trạng này, nước Đức đã nhanh chóng hoạch định những chính sách giáo dục đại học sau đây:
- Hoàn thiện hệ thống ứng dụng khoa học và sản xuất công nghiệp
- Tăng cường vị thế khoa học của các trường đại học trên trường quốc tế.
- Cải tổ hệ thống giáo dục đại học.
- Cấp kinh phí cho trường đại học hơn nữa, trao quyền tự chủ cho trường đại học hơn nữa và các trường đại học hoàn toàn tự do hoạt động và phát triển, liên kết hoặc thu nạp cán bộ khoa học vào hệ thống khoa học Đức.
- Thu hút các nhà khoa học và sinh viên tài năng từ nước ngoài.
5. Tôi nghĩ rằng, nếu giáo dục đại học ở Việt Nam cứ để lâu trong tình trạng như hiện nay là không ổn. Giáo dục đại học là một hệ giáo dục đòi hỏi một hệ chính sách cởi mở để phát triển, có tác dụng định hướng cho sự phát triển giáo dục phổ thông, đào tạo nhân lực chất lượng cao, góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập khoa học quốc tế và thương mại.
Vì lẽ đó, một câu hỏi đặt ra rất nghiêm túc: Cần thiết hay không trong chiến lược phát triển giáo dục sự hình thành một BỘ ĐẠI HỌC ? Xin đừng nghĩ đây là sự bàn lùi, bởi tôi nghĩ rằng, giáo dục đại học phải dẫn dắt giáo dục phổ thông chứ không phải cõng trên lưng giáo dục phổ thông như bây giờ.
Xin có lời bình luận với VED qua tầm nhìn có thể là thiển cận của bản thân tôi.
GS Phạm Tất Dong ( Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam)
Theo Dantri
Mô hình đại học trọng điểm: Hẹp cửa với hệ thống ngoài công lập Tính đến nay, 21 cơ sở giáo dục đại học ở nước ta được chọn để phát triển theo mô hình trọng điểm đều là các trường công lập. Triển khai từ năm 2001, đến nay, mô hình đại học trọng điểm tại nước ta đã đạt được những kết quả đáng khích lệ khi từng bước tiếp cận chuẩn mực chất lượng...