Nữ sinh trường báo xinh xắn là tác giả trẻ tuổi xuất sắc tại Giải Búa liềm vàng 2018
“Đường đến thành công không phải lúc nào cũng trải đầy hoa hồng, bất cứ thành công nào cũng có sự đánh đổi. Quan trọng là bạn có sẵn sàng đạp lên “gai hoa hồng” để tiến tới thành công hay không mà thôi”, đó là những chia sẻ của tác giả trẻ Chu Thùy Trang – chủ nhân giải thưởng “tác phẩm xuất sắc nhất của tác giả trẻ tuổi” tại Giải Búa liềm vàng 2018.
Chu Thùy Trang sinh ra và lớn lên tại vùng đất mỏ Quảng Ninh. Trang hiện đang là sinh viên chuyên ngành Báo truyền hình của Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
Cô gái sinh năm 1998 là một trong hai đạo diễn của bộ phim tài liệu “Ngọn lửa lòng dân”. Bộ phim đã thành công ngoài mong đợi và giành giải thưởng “Tác phẩm xuất sắc nhất của tác giả trẻ tuổi” tại lễ trao giải Báo chí toàn quốc về Xây dựng Đảng lần thứ III (Giải Búa liềm vàng 2018).
Bộ phim tài liệu “Ngọn lửa lòng dân” phản ánh vấn nạn tham nhũng đang ngày càng hoành hành trong một bộ phận cán bộ Đảng viên. Bên cạnh đó, bộ phim ca ngợi vai trò đặc biệt quan trọng của nhân dân trong việc phát hiện, tố cáo, đấu tranh nạn tham nhũng.
Sau những thành công mà bộ phim gặt hái được, Thùy Trang đã chia sẻ cởi mở về những trải nghiệm, suy nghĩ của một sinh viên Truyền hình khi thử sức với vai trò mới là biên kịch và đạo diễn phim tài liệu.
Chu Thuỳ Trang (phải) và Nguyễn Thị Bích Ngọc (trái) – đồng đạo diễn của bộ phim tài liệu “Ngọn lửa lòng dân”
PV: Xin chào Thùy Trang và gửi lời chúc mừng bạn cũng như ekip của bộ phim tài liệu “Ngọn lửa lòng dân”. Sau những thành công mà bộ phim đạt được, với vai trò là biên kịch và đạo diễn, bạn cảm thấy như thế nào?
Chu Thùy Trang: Lễ trao giải Báo chí Toàn quốc về Xây dựng Đảng lần thứ III (Búa liềm vàng) cũng đã kết thúc được vài ngày rồi nhưng thực sự tôi và bạn Bích Ngọc (đồng tác giả) vẫn cảm thấy lâng lâng như khi đang đứng trên sân khấu nhận giải.
Chúng tôi hiện vẫn đang là sinh viên nhưng muốn thử sức với vai trò mới là biên kịch và đạo diễn nên có thể nói giải thưởng này thực sự là một thành công lớn.
Bộ phim “Ngọn lửa lòng dân” là “đứa con đầu lòng” nên chúng tôi cảm thấy vô cùng tự hào và đây chính là một động lực rất lớn để chúng tôi tiếp tục vững bước trên con đường làm báo thú vị nhưng cũng đầy gian nan, thử thách phía trước.
Bạn có thể giới thiệu qua về bộ phim cũng như thông điệp được truyền tải để cho các độc giả hiểu rõ hơn được không?
Thời gian qua, nạn tham nhũng hoành hành, lũng đoạn một bộ phận cán bộ Đảng viên, biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, gây bức xúc trong dư luận.
Với thái độ kiên quyết thì nhân dân có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát hiện, tố cáo, đấu tranh nạn tham nhũng. Đảng trí tuệ, nhân dân một lòng đoàn kết, sẽ tìm ra biện pháp chỉ mặt, gọi tên những kẻ tham nhũng, thao túng quyền lực, chạy chức chạy quyền để xử phạt nghiêm minh.
Bộ phim tài liệu “Ngọn lửa lòng dân” ca ngợi vai trò đặc biệt quan trọng của nhân dân trong việc phát hiện, tố cáo, đấu tranh nạn tham nhũng.
Qua bộ phim, chúng tôi muốn khẳng định: Công cuộc phòng, chống tham nhũng đúng theo kỷ luật Đảng, thuận lòng dân, không chỉ cần sự quyết tâm của những người đứng đầu Bộ Chính trị, mà còn cần sự chung sức đồng lòng của toàn thể nhân dân.
Việc chống tham nhũng phải xuất phát từ chính quyền lợi và nguyện vọng của nhân dân thì mới đi đến thắng lợi.
Bộ phim đề cập đến một vấn đề có thể nói là khá nhạy cảm trong xã hội hiện nay. Vậy chắc hẳn trong quá trình thực hiện bộ phim, những khó khăn gặp phải là không ít?
Khó khăn thứ nhất phải kể đến đầu tiên là việc thuyết phục các cơ quan báo đài. Cũng rất may mắn là chúng tôi gặp được Đạo diễn, NSƯT Phạm Việt Tùng – một đạo diễn phim tài liệu gạo cội.
Ông đã động viên, đứng ra kí hợp đồng làm phim với Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhờ có người thầy Đạo diễn, NSƯT Phạm Việt Tùng mà chúng tôi có thể hiện thực hóa đề tài này.
Cái khó thứ hai chính là việc lên kịch bản, tìm tài liệu bởi đây là một đề tài khó, liên quan đến chính trị, đòi hỏi mọi dữ liệu phải chân thực, chính xác 100%, sai một ly là đi một dặm. Rồi trong quá trình làm công tác tư tưởng cho nhân vật cũng gặp nhiều trở ngại…
Tuy nhiên, trong cái rủi lại có cái may. Tiếp cận với đề tài khó nhưng chúng tôi lại nhận được sự giúp đỡ và ủng hộ của rất nhiều người. Trong đó phải kể đến sự giúp đỡ của Thiếu tướng – Nhà văn Nguyễn Hồng Thái – Phó Cục trưởng Cục Khoa học, Chiến lược và Lịch sử Công an; Viện trưởng Viện lịch sử CAND.
Ông đã nhận lời tham gia viết lời bình cho bộ phim với lòng yêu quý và sự nhiệt tình của một người đi trước luôn sẵn lòng giúp đỡ thế hệ trẻ. Nhờ đó mà bộ phim “Ngọn lửa lòng dân” đã được đánh giá rất cao về nội dung, là yếu tố quan trọng giúp bộ phim đi đến thành công ngày hôm nay.
Cơ duyên nào khiến bạn từ một nữ sinh chuyên ngành báo chí – truyền hình lại thử sức với vai trò là một đạo diễn trẻ với dòng phim tài liệu?
Khi nói đến cơ duyên đưa chúng tôi đến với dòng phim tài liệu, thì đó sự may mắn khi gặp được Đạo diễn, NSƯT Phạm Việt Tùng. Nay ông đã bước sang tuổi 80 nhưng ngọn lửa nghề trong ông vẫn rực cháy.
Ông đã dạy bảo và truyền hết kinh nghiệm của mình trong suốt 60 năm làm nghề cho chúng tôi. Để rồi khi thấu hiểu thể loại phim tài liệu, chúng tôi càng cảm thấy yêu và muốn gắn bó với nó.
Hơn nữa, với chuyên ngành Báo truyền hình của Học viện Báo chí và Tuyên truyền mà tôi đang theo học hiện nay chỉ đào tạo biên tập chứ không đào tạo đạo diễn.
Nhưng tôi và Bích Ngọc nhận thấy được tầm quan trọng của nghề đạo diễn nên chúng tôi đã quyết tâm theo đuổi nó.
Chu Thùy Trang cùng NSUT Phạm Việt Tùng – đạo diễn gạo cội về mảng phim tài liệu
Video đang HOT
Nói về thể loại phim tài liệu, NSND Nguyễn Thước – một đạo diễn gạo cội ở dòng phim này từng chia sẻ rằng: “Theo đuổi phim tài liệu, hệt như việc thả một con ngưạ ra và đuổi theo nó”. Ngày nay, dòng phim tài liệu thường ít được các đạo diễn trẻ quan tâm đến. Vậy với kinh nghiệm của mình, Trang có thể chia sẻ thêm những điểm thú vị khiến bạn ấn tượng nhất về thể loại này để tiếp thêm động lực cũng như khơi nguồn cảm hứng cho những bạn trẻ có cùng niềm đam mê này?
Đúng như NSND Nguyễn Thước nói “Theo đuổi phim tài liệu, hệt như việc thả một con ngưạ ra và đuổi theo nó”. Điều đó là đúng nhưng tôi không hoàn toàn đồng ý. Bởi nếu coi phim tài liệu là một con ngựa hoang thì dù bạn có chạy nhanh như thế nào cũng khó mà đuổi kịp chúng.
Nhưng nếu coi phim tài liệu là một con ngựa nhà, chúng ta hiểu những thói quen, tính cách của nó thì chẳng cần phải tốn sức bạn vẫn có thể bắt được chúng.
Qua đó tôi muốn nói rằng, làm phim tài liệu cũng giống việc thuần hóa một con ngựa. Nếu bạn hiểu được bản chất của phim tài liệu, bạn sẽ biết cách làm chủ thể loại này.
Phim tài liệu là một thể loại khó. Người đạo diễn phải suy nghĩ ngày đêm, tìm cách truyền tải các ý sao cho logic với nhau, không bị rời rạc, gãy vụn. Cái hay của phim tài liệu là truyền tải được ẩn ý của người sáng tác một cách chân thực nhất.
Phim tài liệu hơn nhau ở cái ý tứ sâu cay. Ý tứ càng sâu xa, càng đọng lại trong lòng khán giả. Và đó chính là thành công của một người đạo diễn.
Trang suy nghĩ như thế nào về quan điểm của một số bạn sinh viên đó là chỉ cần tập trung học tốt những kiến thức trên trường lớp để có bảng thành tích thật cao là đủ để kiếm được một công việc tốt sau này?
Tôi cho rằng mỗi bạn có một quan điểm và phương pháp học khác nhau, miễn sao các bạn cảm thấy có hiệu quả là được. Còn với quan điểm của tôi, học vẫn phải đi đôi với hành. Thậm chí là phải thực hành càng nhiều càng tốt. Đặc biệt là ngành báo chí.
Đặc thù của ngành báo chí là thực tế, là phản ánh những vấn đề mang tính thời sự nóng hổi. Tôi có được tiếp xúc với những lãnh đạo nhà đài, họ đều nhận xét những sinh viên mới ra trường chỉ giỏi về lý thuyết chứ không giỏi thực tế. Mà cái hiện nay các báo đài cần là người làm được việc, chứ họ không lấy người về để đào tạo việc.
Vì thế tôi thấy rằng lý thuyết cũng quan trọng, nhưng thực hành còn quan trọng hơn gấp nhiều lần. Và 4 năm đại học là quãng thời gian để bạn tích lũy và rèn nghề. Khi còn là sinh viên, bạn được phép sai. Nhưng khi đã đi làm, sai là bị kỷ luật, là bị đuổi việc.
Hiện nay, có nhiều bạn trẻ ở lứa tuổi của bạn đang rất hoang mang bởi không biết đâu mới thực sự là con đường phù hợp với mình. Là một người trẻ, theo bạn họ sẽ “được phép” loay hoay như thế cho đến bao giờ?
Là một người trẻ, tôi không dám đưa ra bất cứ một nhận định nào cả. Tôi chỉ nghĩ rằng khi còn trẻ, bạn hãy cứ sống hết mình với đam mê. Bạn năng động, nhiệt tình, sẵn sàng chịu khó khổ, dám dấn thân và không ngừng đi tìm cơ hội thì cơ hội sẽ đến với bạn. Ông trời không phụ lòng ai cả.
Tất nhiên là “Đường đến thành công không phải lúc nào cũng trải đầy hoa hồng”, bất cứ thành công nào cũng có sự đánh đổi, quan trọng là bạn có sẵn sàng đạp lên “gai hoa hồng” để tiến tới thành công hay không mà thôi.
Chân dung cô sinh viên năm 3 chuyên ngành Báo truyền hình luôn nỗ lực tìm tòi, học hỏi để theo đuổi niềm đam mê với phim tài liệu
Trong tương lai, Trang có đang ấp ủ cho mình một dự định nào mới không, như tiếp tục thực hiện một bộ phim tài liệu nữa chẳng hạn?
Nhất định rồi. Tôi sẽ tiếp tục theo đuổi công việc làm phim tài liệu yêu thích của mình. Hiện nay tôi và cộng sự Bích Ngọc cũng đang trong một dự án phim mới “Ba đứa chúng mình” và đã đến giai đoạn quay. Bộ phim nói về tình cảm của 3 ông: nhà báo Nguyễn Minh Vỹ, nhà báo Lý Văn Sáu và nhà ngoại giao Võ Văn Sung với xứ trầm hương (Khánh Hòa).
Bộ phim nêu cao tấm gương trong sáng về tinh thần yêu nước, về đạo đức cách mạng, về tình nghĩa đồng chí đồng đội đùm bọc yêu thương trong chiến đấu, công tác cũng như trong cuộc sống đời thường của ba người con quê hương Khánh Hòa và cả 3 đều tham gia kí kết hiệp định Paris 1973.
Chúng tôi chắc chắn sẽ dồn hết tâm huyết cho đứa con tinh thần của mình và mang đến cho công chúng một sản phẩm trọn vẹn nhất.
Cảm ơn Trang đã chia sẻ, chúc bạn sẽ thành công trên con đường mình chọn!
Hồng Nhung
Theo Dân trí
Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh: "Dân tộc - nhân văn - dân chủ - sáng tạo"
Có thể đúc kết Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh thành một câu nói ngắn gọn là "Dân tộc - nhân văn - dân chủ - sáng tạo". Tính đúng đắn của triết lý giáo dục đó được thể hiện bằng "sản phẩm người" - những con người đã làm nên bao kỳ tích của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX.
Tại hội thảo "Giáo dục đại học - Chuẩn hóa và Hội nhập quốc tế",PGS.TS Trần Thị Minh Tuyết , Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã có bài viết phân tích về: " Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh - Cơ sở lý luận của công cuộc cải cách giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay". Dân trí xin trân trọng giới thiệu bài viết này.
Là một nhà hoạt động lỗi lạc trên nhiều lĩnh vực, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có cống hiến nhiều mặt cho sự phát triển của dân tộc và nhân loại. Riêng trong lĩnh vực giáo dục, Hồ Chí Minh không chỉ là người thầy thực thụ mà còn là người kiến tạo ở Việt Nam một nền giáo dục dân chủ theo một triết lý giáo dục hoàn toàn mới so với nền giáo dục thực dân - phong kiến trước đó.
Là hiện thân của "một nền văn hóa tương lai", triết lý giáo dục Hồ Chí Minh cho đến nay vẫn tỏ rõ sự tương thích với những quan điểm giáo dục hiện đại và yêu cầu phát triển của đất nước.
Thấm nhuần và tiếp tục khai thác kho báu đó để tìm ra giải pháp căn cốt cho công cuộc cải cách giáo dục Đại học nói riêng, cải cách giáo dục nói chung chính là nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị và những người hoạt động trong lĩnh vực giáo dục ở nước ta hiện nay.
Theo Hồ Chí Minh, sản phẩm "đầu ra" của giáo dục trước hết phải là những "người tốt" vì không phải ai cũng có thể trở thành thiên tài nhưng nếu cố gắng thì ai cũng có thể trở thành người có ích cho xã hội.
Triết lý giáo dục và triết lý giáo dục Hồ Chí Minh
Giáo dục là một hoạt động liên quan hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp đến tất cả mọi người trong xã hội nên tác động của nó đối với sự phát triển của mỗi con người và mỗi dân tộc là điều không ai có thể phủ nhận. Thực tiễn cho thấy: Muốn "con tàu" giáo dục tiến lên thì trước hết cần phải có một triết lý giáo dục phù hợp. Vậy thế nào là triết lý giáo dục mà sự đúng sai của nó lại là nguyên nhân quyết định sự thành, bại của một nền giáo dục?
Xung quanh khái niệm này có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng theo chúng tôi, triết lý giáo dục là những nguyên lý nền tảng chỉ đạo toàn bộ việc xác lập mục tiêu, nội dung, phương pháp thực hiện hoạt động giáo dục được đúc kết bằng những câu nói ngắn gọn.
Nói đơn giản thì triết lý giáo dục trả lời cho câu hỏi: Nền giáo dục đó muốn đào tạo ra ai và bằng cách nào? Theo cách hiểu này thì bất cứ nền giáo dục nào cũng có triết lý giáo dục của nó (cho dù đó là một luận thuyết hoàn chỉnh hay chỉ là những nguyên tắc chỉ đạo cơ bản) và triết lý giáo dục là một bộ phận cấu thành triết lý phát triển của đất nước.
Trước thực trạng khó khăn của nền giáo dục Việt Nam nói chung, giáo dục đại học Việt Nam nói riêng, nhiều người cho rằng mọi bất cập hiện có và thất bại của các cuộc cải cách giáo dục trong những năm qua đều xuất phát từ việc chúng ta đang thiếu một triết lý giáo dục đúng đắn để dẫn dắt.
Khi giáo dục đã được Đảng xác định là vấn đề "quốc sách", khi đổi mới toàn diện nền giáo dục Việt Nam đang là nhiệm vụ trọng yếu mà Đảng đã đặt ra, xây dựng một triết lý giáo dục phù hợp là nhiệm vụ cấp bách của nước ta hiện nay. Do tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng nên việc xác định triết lý giáo dục Việt Nam trong thời kỳ hội nhập để làm cơ sở cho công cuộc cải cách giáo dục tất yếu phải gắn liền với việc khai thác, vận dụng sáng tạo triết lý giáo dục Hồ Chí Minh.
Sinh ra trong một gia đình khoa bảng nên từ nhỏ, Hồ Chí Minh đã được giáo huấn kỹ lưỡng về sức mạnh của tri thức và đạo đức - những sản phẩm riêng có của giáo dục. Vì thế, Người không chỉ khẳng định "Hiền, dữ đâu phải là tính sẵn/ Phần nhiều do giáo dục mà nên" mà còn nhấn mạnh tác động to lớn của giáo dục đối với lớp trẻ, rằng "óc những người tuổi trẻ trong sáng như một tấm lụa trắng.
Nhuộm xanh thì nó sẽ xanh. Nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ". Sự trải nghiệm thực tiễn phong phú càng làm Người thấu hiểu tầm quan trọng của giáo dục và sự nguy hại của dốt nát.
Do đó, nếu trong lịch sử Việt Nam, các bậc minh quân chỉ nói đến giặc ngoại xâm thì Hồ Chí Minh là người đầu tiên nói đến giặc dốt. Khẳng định "một dân tộc dốt là một dân tộc yếu", giặc dốt hoành hành là tiền đề để giặc đói, giặc ngoại xâm tấn công, Hồ Chí Minh luôn khẳng định xóa nạn mù chữ, làm cho dân có học, " kiến thiết giáo dục" vừa là một nhiệm vụ cấp bách của cách mạng Việt Nam, vừa là một trong những "ham muốn tột bậc" của Người.
Riêng về giáo dục Đại học, Hồ Chí Minh đã nói về tầm quan trọng của nó như sau: "Trong việc kiến thiết nước nhà về mọi mặt, ta thiếu rất nhiều cán bộ như kỹ sư, thợ lành nghề, thầy dạy học... Vì vậy, ta phải phát triển mạnh đại học và chuyên nghiệp". Với nhận thức đó, vào ngày 1/10/1945, tức thời điểm ngay sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh về việc thiết lập Ban Đại học Văn khoa Hà Nội.
6 triết lý chủ đạo
Là "tổng công trình sư" của nền giáo dục Đại học Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đã hàm chứa những triết lý chủ đạo sau đây.
Thứ nhất, giáo dục có mục đích đào tạo công dân có ích cho cách mạng và phát triển mọi năng lực sẵn có của người học.
Do tác động của thể chế chính trị, mỗi nền giáo dục lại có mục tiêu khác nhau. Nếu Platon ở thời cổ đại cho rằng sứ mệnh của giáo dục là chuẩn bị cho người học gia nhập và phục vụ đắc lực cho một xã hội nhất định nào đó thì Rút xô ở Thế kỷ ánh sáng lại coi hoàn thiện nhân tính, phát triển năng lực riêng có của mỗi con người là mục tiêu của giáo dục. Vì xã hội hay vì con người là những triết lý giáo dục khác nhau.
Kế thừa tinh hoa văn hóa nhân loại, trong đó có văn hóa giáo dục, ngay sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã khẳng định nền giáo dục mới ở Việt Nam là nền giáo dục có mục đích "kép" - "một nền giáo dục đào tạo ra những công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có" của người học.
Nếu nền giáo dục phong kiến có mục tiêu tạo ra những người "làm quan" để hưởng vinh vinh hoa, phú quý, nếu nền giáo dục thực dân có mục tiêu đào tạo ra những trí thức nô lệ để hầu hạ chúng thì nền giáo dục mới có mục tiêu đào tạo những người chủ tương lai của đất nước. Giáo dục do đó phải đào tạo ra lớp người biết hành động vì lợi ích dân tộc chứ không phải "đào tạo ra những con người thuộc sách làu làu, cụ Mác nói thế này, cụ Lênin nói thế kia, nhưng nhiệm vụ của mình được giao quét nhà lại để cho nhà đầy rác".
Chính mục tiêu phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội sẽ quy định nội dung giáo dục phải thiết thực. Hồ Chí Minh nói rõ: Dạy và học cần phải theo nhu cầu của dân tộc, của nhà nước cũng như "làm ra hàng phải đúng với nhu cầu của người tiêu thụ. Nếu người ta cần nhiều xe mà mình làm ra nhiều bình tích thì ế hàng".
Tóm lại, giáo dục phải hoàn thành nhiệm vụ đào tạo ra những con người "công cụ" để phục vụ những mục tiêu then chốt của cách mạng nhưng chính trong quá trình đó, bản thân mỗi con người cũng được hoàn thiện cả về năng lực lẫn phẩm chất. Như vậy, trong triết lý giáo dục của Hồ Chí Minh, mục đích vì con người cộng đồng và vì con người cá nhân luôn hòa quyện làm một và thực tế thì chúng luôn hòa quyện làm một.
Thứ hai, giáo dục phải đảm bảo nguyên tắc toàn diện nhưng trước hết phải chú trọng đến việc giáo dục đạo đức.
Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một chương trình giáo dục toàn diện bao gồm cả đức, trí, thể, mỹ nhưng Người đặt đạo đức cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. Người nhấn mạnh: "Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang".
Theo Hồ Chí Minh, sản phẩm "đầu ra" của giáo dục trước hết phải là những " người tốt" vì không phải ai cũng có thể trở thành thiên tài nhưng nếu cố gắng thì ai cũng có thể trở thành người có ích cho xã hội.
Hơn nữa, tâm mà trong thì trí sẽ sáng, đạo đức sẽ giúp con người vươn tới một cuộc đời có ý nghĩa chứ không dừng ở sự mưu sinh. Đạo đức cũng sẽ thúc đẩy họ tự giác hoàn thiện mình về mọi mặt để trở thành con người toàn diện. Ngược lại, nếu không có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì dù có tài cũng thành vô dụng, thậm chí càng có tài thì họ càng trở nên nguy hiểm đối với cộng đồng xã hội.
Từ đó, Hồ Chí Minh yêu cầu: Điều quan trọng là phải dạy cho thanh niên biết yêu nước, thương nòi, có lý tưởng cách mạng và lối sống cao thượng. Quá trình giáo dục đạo đức luôn phải kết hợp giữa 2 công việc là xây và chống nên giáo dục còn phải giúp con người "sửa chữa tư tưởng" và "tẩy rửa" các khuyết điểm của mình.
Thứ ba, g iáo dục luôn phải kết hợp học với hành, lý luận với thực tiễn.
Từ nguyên tắc lý luận phải gắn với thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã đúc kết: "Thực hành sinh ra hiểu biết, hiểu biết tiến lên lý luận, lý luận lãnh đạo thực hành". Đây cũng chính là nguyên tắc hàng đầu của nền giáo dục mới do Hồ Chí Minh tạo dựng nên khi đặt câu hỏi "Học để làm gì", Người đã trả lời: "Học để hành. Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì học vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy".
Nguyên tắc này chi phối toàn bộ chương trình giáo dục nhưng ở cấp đại học - bậc cuối cùng trang bị tri thức và kỹ năng để các trí thức trẻ bước vào xã hội với tư cách một người lao động, nó càng trở nên quan trọng.
Hồ Chí Minh đã căn dặn sinh viên rằng: "Lao động trí óc mà không lao động chân tay, chỉ biết lý luận mà không biết thực hành thì cũng là trí thức một nửa. Vì vậy, nên các cháu trong lúc học lý luận cũng phải kết hợp với thực hành".
Người nhấn mạnh "sản phẩm đầu ra" của giáo dục đại học không phải là "cái hòm đựng sách", tức những con người chỉ giỏi lý thuyết mà phải những con người có hoài bão hành động, có năng lực đem những điều đã học áp dụng vào thực tiễn.
"Giáo dục muốn thành công thì phải có đội ngũ giáo viên đủ đức, đủ tài"
Thứ tư, giáo dục phải rèn cho con người tư duy độc lập, sáng tạo.
Đecartes - người được xem là cha đẻ của triết học hiện đại (1596-1650) đã đề cao vai trò của tư duy bằng cụm từ "Tôi tư duy vậy thì tôi tồn tại". Điều đó có nghĩa là tư duy - một quy trình nhận thức mang tính độc lập chính là đặc tính căn cốt của con người, là biểu hiện của năng lực người, trình độ người.
Nhiệm vụ của giáo dục là phải giúp con người nâng cao năng lực ấy. Về phía người học, Hồ Chí Minh yêu cầu "phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng.
Đọc tài liệu thì phải đào sâu hiểu kỹ, không tin cậy một cách mù quáng từng câu một trong sách, có vấn đề chưa thông suốt thì mạnh dạn đề ra và thảo luận cho vỡ lẽ.
Đối với bất cứ vấn đề gì đều phải đặt câu hỏi: "Vì sao"... tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều".
Kinh viện, giáo điều, sùng tín mù quáng, coi sách "thánh hiền" là những chân lý bất biến là những điều Hồ Chí Minh hết sức đả phá. Người còn căn dặn sinh viên không nên "học gạo, học vẹt", nhồi nhét theo kiểu "chất vào kho" mà phải luôn đào sâu suy nghĩ, luôn so sánh, liên hệ với thực tế vì khi tôt nghiêp đai hoc, họ phai đủ năng lưc lam viêc độc lập như một chuyên gia ở môt chuyên môn nhât đinh.
Muốn vậy thì người thầy phải chú trọng việc trang bị cho người học năng lực phản biện tri thức có sẵn và khả năng sáng tạo ra những tri thức mới.
Thứ năm, giáo dục phải rèn luyện cho con người tinh thần tự học và ý thức học suốt đời.
Không một nhà trường nào có đủ thời lượng và điều kiện truyền dạy cho người học khối lượng tri thức đủ dành cho suốt cuộc đời nên điều quan trọng là phải giáo dục cho người học ý thức tự học và khả năng học tập khi không có giáo viên.
Hồ Chí Minh nhắc nhở người học rằng "không phải có thầy thì học, thầy không đến thì đùa. Phải biết tự động học tập". Phải nói rằng so với việc học trên lớp có giáo viên hướng dẫn thì việc tự học không chỉ khó khăn hơn trong việc tiếp thu tri thức mà còn đòi hỏi ở người học ý thức tự giác, tinh thần kỷ luật và sự bền bỉ thực sự.
Muốn tự học thành công thì còn phải có phương pháp và tránh căn bệnh "lửa rơm". Để giúp người học hình thành thói quen tự học, Hồ Chí Minh đã đúc kết "quy trình học tập" gồm 3 khâu: Đầu tiên, người học phải tự giác đào sâu nghiên cứu, sau đó tiến hành thảo luận tập thể và cuối cùng là giáo viên củng cố thêm kiến thức.
Thực chất đây chính là mô hình học tập "lấy người học làm trung tâm" mà giáo dục hiện đại đang đề cao.
Tri thức của loài người là vô tận và cuộc sống không ngừng đòi hỏi ở con người những tri thức mới, do đó, học tập là việc suốt đời phải làm. Hồ Chí Minh cho rằng việc học suốt đời là tất yếu vì "khi thành công thì phải nghiên cứu vì sao thành công để lấy kinh nghiệm, khi thất bại cũng sẽ xem xét tại sao thất bại để mà tránh đi".
Hồ Chí Minh còn rút ra chân lý: "Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy phải học thêm ". Điều này hoàn toàn đúng bởi càng học sẽ càng thấy sự thú vị của tri thức và dần dần việc học sẽ trở thành một nhu cầu mang tính tự thân.
Mặt khác, khi giáo dục cho người học ý thức tự học suốt đời và tinh thần cầu thị, nhà trường cũng phải giáo dục cho người học đức tính khiêm tốn bởi "nếu còn tự kiêu, tự mãn thì học biết nhiều thêm chỉ có hại".
Đối với bản thân Hồ Chí Minh, tự học không chỉ là triết lý giáo dục mà còn là triết lý nhân sinh. Trong 30 năm hoạt động quốc tế, dù phải vất vả kiếm sống và hoạt động chính trị, dù không có thầy dạy, không có trường học, Hồ Chí Minh vẫn cần mẫn tự học.
Để có công cụ giao tiếp và tiếp thu tri thức nhân loại, Hồ Chí Minh chăm chỉ học ngoại ngữ. Năm 1935, trong tờ khai lý lịch của đại biểu tham dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, Người khai rõ: Họ và tên: Lin; Trình độ học vấn: Tự học; Biết các thứ tiếng: Pháp, Anh, Trung, Ý, Đức, Nga... Là một nhà hoạt động chính trị chuyên nghiệp, Hồ Chí Minh hiểu rõ tầm quan trọng của báo chí trong việc tuyên truyền cách mạng và vì vậy, Người quyết tâm học cách làm báo, viết báo.
Kỳ lạ là Người "học viết báo Pháp trước, rồi học viết báo Trung Quốc. Rồi sau mới học viết báo Việt". Từ viết báo, dần dần Người chuyển sang viết truyện, viết kịch... Sau nửa thế kỷ cầm bút, nhà báo Hồ Chí Minh khẳng định: "Không sợ khó, có quyết tâm. Không biết thì phải cố gắng học, mà cố gắng học thì nhất định học được".
Bằng sự trải nghiệm của một người tự học mà trở thành danh nhân văn hóa kiệt xuất, Hồ Chí Minh coi tự học là một phẩm chất mà giáo dục phải trang bị cho người học và giáo dục khả năng tự học là một nội dung quan trọng trong triết lý giáo dục Hồ Chí Minh.
Thứ sáu, g iáo dục muốn thành công thì phải có đội ngũ giáo viên đủ đức, đủ tài.
" Trồng người" là mối quan tâm của toàn xã hội nhưng trách nhiệm trực tiếp thuộc về người thầy - những con người mà Hồ Chí Minh gọi là những "anh hùng vô danh". Người đã chỉ ra sự khác biệt về bổn phận, trách nhiệm giữa người thầy thời nay và thời kỳ phong kiến như sau: "Thời trước giáo dục là gõ đầu trẻ để kiếm cơm ăn. Có cơm chùa thì đánh chuông, hết cơm chùa thì không đánh chuông. Bây giờ nhiệm vụ giáo dục khác trước...
Mục đích giáo dục bây giờ là phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, đào tạo lớp người, lớp cán bộ mới".
Không chỉ là tri thức khoa học, người thầy còn có trách nhiệm truyền đến người học cảm hứng học tập, ý thức, kỹ năng tự học và phẩm chất làm người. Dạy người mới là điều khó nhất nên người xưa đã đúc kết: "Kinh sư dĩ đắc, nhân sư nan tầm".
Để hoàn thành trọng trách vừa dạy chữ, vừa dạy người, bản thân người giáo viên, người huấn luyện "phải là kiểu mẫu về mọi mặt: Tư tưởng, đạo đức, lối làm việc". Đặc biệt, họ phải có ý thức học không ngừng, "người huấn luyện nào tự cho mình đã biết đủ cả rồi thì người đó dốt nhất".
Họ tuyệt đối không được "độc tôn" chân lý mà phải xây dựng môi trường giáo dục mang tính dân chủ. Khi căn dặn "trong nhà trường cần có dân chủ. Đối với mọi vấn đề, thầy và trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông suốt thì hỏi, bàn cho thông suốt.
Dân chủ nhưng trò phải kính thầy, thầy phải quý trò chứ không phải cá đối bằng đầu", Hồ Chí Minh tỏ rõ mong muốn mối quan hệ giữa thầy và trò vừa phải đúng đạo lý theo văn hóa truyền thống, vừa phải dân chủ, cởi mở về học thuật để sinh viên có thể tiếp cận tri thức một cách đầy đủ, đa chiều nhất.
Có thể khẳng định: Tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là một bộ phận trọng yếu trong hệ thống tư tưởng của Người, sự nghiệp giáo dục của Hồ Chí Minh góp phần làm nên sự nghiệp cách mạng to lớn của Người.
Triết lý giáo dục được kết tinh từ tư tưởng đó đã góp phần tạo nên triết lý giáo dục Việt Nam và làm giàu cho kho tàng triết lý giáo dục của toàn nhân loại.
Có thể đúc rút triết lý giáo dục Hồ Chí Minh thành một câu nói ngắn gọn là " Dân tộc - nhân văn - dân chủ - sáng tạo". Tính đúng đắn của triết lý giáo dục đó được thể hiện bằng "sản phẩm người" - những con người đã làm nên bao kỳ tích của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX.
Phần 2: Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh và quan niệm giáo dục hiện đại ngày nay.
PGS.TS Trần Thị Minh Tuyết
Theo Dân trí
Những dấu ấn đẹp từ tinh thần nhân văn từ câu lạc bộ, đội, nhóm tình nguyện Tình nguyện là nét đẹp thể hiện tính nhân văn, nhiệt huyết của thanh niên. Phát huy tinh thần xung kích của tuổi trẻ, trước yêu cầu của thời kỳ mới, hàng ngàn thanh niên Việt Nam đang tích cực chung sức tham gia phát triển kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao dân trí, cải thiện dân sinh. Trên khắp...