Nỗi niềm dạy chữ nơi chỉ có… “sóng lòng”
Chịu cảnh không điện sáng, không sóng điện thoại, không mạng, chỉ có gió, núi rừng heo hút và những cơn “sóng lòng” cuồn cuộn chảy từng đêm. Thế nhưng những giáo viên nơi này vẫn cần mẫn, miệt mài “cõng chữ lên non”.
Gian nan hành trình gieo chữ
Đó là câu chuyện về hành trình gieo chữ của giáo viên (GV) Trường tiểu học Trung Lý II, thuộc xã Trung Lý, một xã nghèo, khó khăn nhất huyện Mường Lát (Thanh Hóa). Hầu hết các GV đều là người dưới xuôi lên cắm bản, họ gắn bó hàng chục năm với bản làng, với học sinh nơi này.
Gian nan con đường vào các điểm trường.
Những thầy cô giáo cũng quen dần với nhọc nhằn thiếu thốn, chôn dấu những nỗi niềm riêng của bản thân để gieo chữ cho học trò vùng cao. Nếu ở lại đây vài ngày thôi cũng đủ cảm nhận được sự hy sinh thầm lặng của GV nơi núi rừng đến nhường nào. Nơi này, mây mù quanh năm bao phủ, tựa hồ như có một Sa Pa còn “say ngủ”.
Đêm xuống vùng núi chìm trong sự thăm thẳm, tiếng gió rít, tiếng côn trùng kêu tạo nên một không gian sâu đến khôn cùng. Ánh đèn dầu leo lắt trong chạng vạng tối, mọi thông tin, giao lưu với bên ngoài dường như tắt ngúm khi các điểm trường lọt thỏm giữa rừng núi ngút ngàn.
Chỉ thế thôi cũng đủ khiến ai mới đặt chân lên mảnh đất này cũng cảm thấy nản và ớn lạnh sống lưng, đó là chưa nói đến gian nan trên con đường rừng nối từ tỉnh lộ 502 để vào đến trường. Con đường quanh co uốn lượn với vô số dốc và suối nếu không chắc tay lái thì không thể đi được trên con đường này. Có một thầy giáo đã kể rằng ngày đầu tiên khăn gói lên đây, anh đã ngã 17 lần mới đến được điểm trường chính nằm trên bản Cò Cài của xã Trung Lý. Cũng chính vì thế mà người dân ở đây chỉ biết đi bộ, họ muốn đi khỏi bản cũng mất non nửa ngày trời nên trong mắt họ, bản làng nơi họ sinh sống đã là cả một thế giới.
Một giờ dạy của cô Nguyễn Thị Nhung.
Cô Nguyễn Thị Châu Anh, GV dạy điểm trường lẻ tại bản Cá Ráng chia sẻ: “Ngày đầu lên đây, mình vừa đi vừa khóc, con đường nhìn thôi đã hãi rồi nói gì đến đi, thế mà vẫn phải vừa đi vừa chạy vì sợ trời tối. Vào đến bản thì nhìn những ngôi nhà sàn như những tổ chim, cảm giác như chỉ một cơn gió thôi cũng đủ lật úp, học sinh thì nhem nhuốc, váy áo luộm thuộm. Đặt chân đến nơi mình dạy thì xem như bước vào một thế giới khác. Tất cả khiến mình muốn bỏ cuộc nhưng nhìn các cháu ở đây thiếu thốn đủ thứ lại như níu bước chân mình. Rồi ở lại, rồi quen”.
Nơi chỉ có “sóng lòng”
Video đang HOT
Ngay hôm đầu tiên đến, tôi đã được nghe GV giới thiệu “nơi này không sóng điện thoại đâu nhé, chỉ có sóng lòng, sóng suối thôi”. Thoạt nghe tưởng là câu nói đùa nhưng ẩn chứa rất nhiều nỗi niễm của họ trong đó. Họ chôn dấu đi sự thiếu thốn tình cảm người thân, gia đình để thôi đau đáu mà tập cho mình quen dần.
Dù gian nan nhưng các thầy cô luôn tận tuỵ với những học trò của mình.
Không có sóng điện thoại hay mạng internet nên khi cần thông tin hay liên lạc gì, các thầy cô đều phải chạy xe hàng tiếng đồng hồ trên con đường rừng với dốc đá cheo leo để ra phía ngoài đường chờ “hứng” sóng. Có khi mất cả ngày chỉ vì một cuộc điện thoại.
Thầy Triệu Văn Xít, quê ở xã Pù Nhi (Mường Lát), GV duy nhất chưa lập gia đình, tâm sự: “Cũng ở cùng huyện nhưng cả tháng mình mới tranh thủ về nhà được vì đường xá đi lại khó khăn, nhiều lúc nhớ nhà, nhớ người yêu nhưng phải chịu thôi. Đã vào đến trong này thì mọi giao lưu với bên ngoài dường như biệt lập. Cứ khi nào nhớ lắm thì lại tranh thủ chạy hơn 14km đường rừng mất cả mấy tiếng mới ra được đến phía ngoài đường có sóng điện thoại, gọi cũng chỉ được vài phút thôi”.
Trong căn phòng tập thể như rộng hơn, buồn hơn trong những đêm mùa đông lạnh lẽo, là những tâm hồn đầy thổn thức của những GV phải xa gia đình, có người xa vợ, người xa chồng, con lên đây công tác. Những GV ấy vẫn ngày ngày lên lớp cần mẫn, miệt mài mang con chữ cho học sinh nghèo nơi núi rừng.
Đã có gia đình, nhưng chồng cô Lê Thị Hương làm việc tận ở Bình Dương, còn đứa con trai học lớp 4 phải gửi lại bà nội. Mỗi năm, cô Hương chỉ được gặp chồng và con được vài ba lần đó là vào dịp hè, Tết, và dịp lễ lạt gì đó. Với một người luôn cách xa gia đình như thế thì sự chờ đợi với họ một ngày thôi cũng thật đằng đẵng. Mỗi lần nhắc về con, nước mắt chị lại ứa ra, nỗi nhớ nhà, nhớ chồng con lại được dịp thổn thức.
Cũng giống như cô Hương, đứa con nhỏ duy nhất của cô Nguyễn Thị Nhung cũng phải gửi cho ông bà nuôi. Chồng cô Nhung cũng là GV nhưng công tác bên huyện Quan Hóa. Nhắc đến chồng, cô đưa tay chỉ về phía bên kia dãy núi cao ngất trời bảo: “Anh ở bên đó, mỗi lần nhớ thì đứng nhìn lên thôi, muốn gặp chồng cũng phải chạy vòng mất hàng trăm cây số. Vợ chồng cũng cả mấy tháng trời mới được nói chuyện với nhau. Con thì mẹ về không buồn theo nữa”.
Ánh mắt ngây thơ của những học trò đã níu những bước chân thầy cô giáo miền xuôi.
Cái thời buổi tưởng như người ta sử dụng công nghệ thông tin mà quên đi việc viết thư tay thì đối với thầy hiệu trưởng Phạm Đăng Dung thì mỗi lần có công việc xuống huyện thầy lại tranh thủ ghi thư cho vợ con ở quê nhà. Thầy còn kể: “Mỗi lần chạy ra ngoài đường để gọi điện về nhà là mình lại ghi âm lại, nhưng đêm buồn thì bật lại để nghe”. Nghe những tâm sự từ đáy lòng của những GV nơi này, lại tưởng như có một câu chuyện về Ngưu Lang – Chức Nữ thời hiện đại.
Dù hành trình ươm mầm, gieo chữ vẫn còn nhiều lắm gian nan, vất vả nhưng những GV ở đây vẫn bám trụ lại ngôi trường và ngày ngày mang tình yêu, tình thương trong từng con chữ đến với học trò.
Nguyễn Thùy – Duy Tuyên
Theo dân trí
Nghịch lý thiếu giáo viên ở các huyện miền núi
Hàng trăm sinh viên tốt nghiệp đại học theo diện cử tuyển ra trường vẫn chưa được bố trí việc làm. Trong khi đó, tại các huyện Mường Lát, Quan Hóa của tỉnh Thanh Hóathì tình trạng thiếu giáo viên đang trở nên trầm trọng.
Theo quy định mới của tỉnh Thanh Hóa, yêu cầu các đơn vị trực thuộc chưa được phép tuyển dụng hoặc hợp đồng giáo viên (GV) để thực hiện việc điều động, cân đối đội ngũ cán bộ quản lý và GV trên phạm vi toàn tỉnh.
Nhiều học sinh ở các huyện miền núi có nguy cơ không được đến trường vì tình trạng thiếu giáo viên.
Tại huyện Mường Lát hiện tại huyện này có 40 con em đồng bào dân tộc trong huyện đi học theo diện cử tuyển đã tốt nghiệp ra trường. Đó là chưa kể hàng chục sinh viên theo học các ngành khác nhau ra trường vẫn chưa được bố trí việc làm.
Ông Lương Văn Bường, Chủ tịch UBND huyện Mường Lát cho biết, huyện Mường Lát còn thiếu gần 200 GV, trong đó có 74 GV bậc mầm non; riêng bậc Tiểu học thiếu 120 GV, trong đó GV văn hoá thiếu 40 người, còn lại là GV đặc thù; đối với bậc THCS còn thiếu 25 GV.
Cũng theo ông Bường, từ năm 2010 đến nay, tỉnh Thanh Hoá có văn bản chỉ đạo không được tuyển và hợp đồng mới GV. Đặc biệt năm 2012 có chỉ tiêu nhưng không được tuyển. Tỉnh Thanh Hoá có chủ trương đưa GV miền xuôi lên theo diện bố trí, sắp xếp lại GV dôi dư nhưng nhiều GV không lên do điều kiện khó khăn.
Việc thiếu GV đã gây ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục của địa phương. Cấp Tiểu học phải học 2 ca/ngày, GV vừa thiếu, số còn lại phải vất vả hơn trong công tác giảng dạy.
Điều kiện kinh tế khó khăn cũng ảnh hưởng đến chất lượng học của các em học sinh miền núi.
"Mới đây, UBND tỉnh Thanh Hoá giao cho Sở Nội vụ phối hợp với Sở GD-ĐT kiểm tra và báo cáo UBND tỉnh. Đây là vấn đề bức xúc ở địa phương. Riêng bậc học mầm non nếu thấy cần thiết chúng tôi sẽ hợp đồng, không để học sinh (HS) không được đến lớp", ông Bường nhấn mạnh.
Còn tại huyện Quan Hóa thì tình trạng trên cũng tương tự. Từ năm 2005 - 2011 huyện Quan Hóa có hơn 140 em tốt nghiệp ngành Sư phạm theo diện đi học cử tuyển nhưng cho đến nay cũng mới chỉ sắp xếp công việc được 18 trường hợp. Trong khi đó, huyện Quan Hóa đang thiếu 60 GV mầm non nếu căn cứ theo tình hình thực tế; cấp Tiểu học thiếu 47 GV; cấp THCS thiếu 24 GV.
Theo đánh giá của chính quyền địa phương, chỉ đạo của tỉnh Thanh Hóa trong việc tạm dừng tuyển dụng, hợp đồng GV là cần thiết đối với tình trạng chung của Thanh Hóa. Tuy nhiên, với các huyện vùng cao khó khăn như Mường Lát và Quan Hóa với những đặc điểm kinh tế - xã hội đặc biệt, quy định trên lại đang gây ra những khó khăn, ảnh hưởng trực tiếp đến học sinh miền núi.
Do đặc điểm dân cư cư trú phân tán trên địa hình phức tạp ở vùng cao nên lớp học tại vùng cao hầu hết không đáp ứng được yêu cầu về sĩ số của tỉnh Thanh Hóa. Như tại Quan Hóa, chỉ tiêu của tỉnh Thanh Hóa là 30 HS/lớp (bậc Trung học cơ sở) thì Quan Hóa chỉ đáp ứng được ở mức 25 HS/lớp; bậc tiểu học quy định 20 HS/lớp thì Quan Hóa chỉ đáp ứng được 14 HS/lớp.
Huyện Quan Hóa có 258 lớp Tiểu học thì có tới 110 lớp ghép hai trình độ. Đặc biệt có nơi dù là lớp ghép hai trình độ song cũng chỉ đạt được 6-8 HS/lớp ghép, như tại bản En (xã Phú Thanh), bản Giá (xã Thanh Xuân). Chính vì vậy, việc bắt buộc phải phân chia GV ra các vùng nhỏ lẻ cũng tác động lớn đến tình trạng thiếu GV ở các huyện vùng cao Thanh Hóa.
Ông Phạm Anh Toàn, Phó phòng GD-ĐT huyện Quan Hoá cho biết: "Thực hiện các quyết định của UBND tỉnh Thanh Hóa, huyện Quan Hoá đang cố gắng bố trí, sắp xếp không để bản nào trắng GV mầm non. Tuy nhiên căn cứ vào tình hình thực tế thì vấn đề thiếu GV đang gây nhiều khó khăn cho địa phương. Hiện con em địa phương ra trường mới bố trí được khoảng 40% vào công tác trong ngành, còn lại Phòng cũng đã báo cáo cấp trên để có hướng xử lý".
Việc thiếu giáo viên đã gây không ít khó khăn cho ngành giáo dục của các địa phương miền núi.
Từ nhu cầu thực tế, năm học 2011-2012, huyện Mường Lát đã tuyển dụng tạm thời 50 GV. Tuy nhiên, do tỉnh ra quy định cấm tuyển dụng, hợp đồng GV trong năm học 2012 - 2013 nên số giáo viên này đã phải nghỉ dạy, làm tăng tình trạng thiếu GV trên địa bàn huyện. Trong khi đó vẫn chưa có GV mới nào được điều động từ các huyện khác lên cho Mường Lát.
Nghịch lý vấn đề GV ở các huyện miền núi của tỉnh Thanh Hóa đang khiến nhiều HS có nguy cơ không được đến trường vì không có GV
Duy Tuyên
Theo dân trí
Nhọc nhằn con chữ trên non Con đường đất chừng 35km khiến tôi có cảm giác như đang đi trên đường Tây Tiến khi xưa. Xã vùng cao Chế Tạo, huyện Mù Cang Chải, Yên Bái chỉ cách trung tâm huyện một "đoạn" đường. Xã có địa bàn rộng hơn 30km2 bị chia cắt bởi núi cao, vực sâu nhưng chỉ vỏn vẹn khoảng 1.700 nhân khẩu. Xã hầu...