“Nói không có môn chính- môn phụ, theo tôi đó là quan điểm sai lầm”
Môn Văn rất quan trọng, vậy nên mới có thời khóa biểu 1 tuần từ 3 đến 5 tiết Văn, trong khi các môn khác 1 tuần có 1-2 tiết.
Như vậy làm sao mà bằng nhau được.
Phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã trao đổi với nhà giáo ưu tú Nguyễn Văn Ngọc – cựu giáo viên dạy Toán Trường Trung học phổ thông Thăng Long (quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) về một số vấn đề được, chưa được trong Thông tư 22 của Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa ban hành và có hiệu lực từ ngày 5/9 tới, thầy Ngọc cho biết:
“Thông tư 22 tôi thấy có một số thay đổi khá tốt như bỏ tính điểm trung bình các môn; Bỏ xếp loại yếu kém. Ngoài ra có một số thay đổi về quan niệm phân loại học sinh, giúp học sinh hào hứng phấn đấu, điều này mang tính nhân văn”.
Nhà giáo ưu tú Nguyễn Văn Ngọc: “4 môn Toán, Văn, Ngoại ngữ và Tin học vẫn là 4 môn trọng điểm, phải được coi trọng hàng đầu, chú trọng dạy tăng thời lượng giảng dạy trong nhà trường”. Ảnh: T.D.
Nhưng theo thầy Ngọc, có một số điểm cần phải xem lại như sau: “Thứ nhất, quan điểm không còn môn chính, môn phụ, tôi cho đây là quan niệm sai, tại sao? Trong nhà trường giáo dục phổ thông, giáo dục hướng nghiệp, và phân luồng giáo dục là phải song hành với nhau, chứ không phải học sinh đến trường được dạy môn nào cũng như nhau.
Ví dụ: Trong thực tế có những người kém Văn, khi trình bày một vấn đề gì đó nhưng họ nói mãi mà người nghe vẫn không hiểu, nói không nên lời, như vậy thì phải tính sao đây. Vậy đây có phải là mục đích của giáo dục?
Việc đầu tiên, đã là người Việt Nam thì phải thông thạo tiếng mẹ đẻ, có thạo thì mới học được các môn khác, như vậy là phải coi trọng môn Văn. Bây giờ học Văn lại “hùm bà lằng” như các môn khác thì sao gọi là dạy Văn được.
Đối với Ngữ văn phải được dạy rất sâu sắc thì mới có trình độ nhất định, mới có khả năng biện luận, khả năng thuyết phục người nghe. Vậy không dạy điều đó thì học sinh tiếp thu ở đâu?
Phải coi trọng môn Văn, vậy nên mới có thời khóa biểu 1 tuần 3 đến 5 tiết Văn, trong khi các môn khác 1 tuần có 1-2 tiết. Như vậy làm sao mà bằng nhau được, không coi trọng thì tại sao lại bố trí nhiều tiết học như vậy?
Đối với môn Toán lại càng quan trọng, bởi bất cứ một con người nào thành đạt đều phải có sự nhanh nhạy, tháo vát, biết tính toán đường đi nước bước, sự tổng quát tình hình giúp xử lý mọi việc một cách có hiệu quả. Những điểm ưu tú đó lấy từ đâu ra? Xin thưa là từ tư duy, kĩ năng Toán học mà ra, không thể nào “thoát” khỏi môn Toán được. Vậy nên, nếu học giỏi Toán sẽ giúp ích giải quyết mọi vấn đề khác trong cuộc sống.
Nói về môn Ngoại ngữ, Tin học nếu không coi trọng thì thử hỏi với thời đại hiện nay nếu không có 2 kĩ năng đó thì làm sao. Học sinh không giỏi 2 môn đó thì làm được gì?
Video đang HOT
Theo tôi 4 môn Toán, Văn, Ngoại ngữ và Tin học vẫn là 4 môn trọng điểm, phải được coi trọng hàng đầu, chú trọng dạy tăng thời lượng giảng dạy trong nhà trường, tăng mức đánh giá để bắt buộc học sinh phải cố gắng. Còn nếu nói không có môn chính, môn phụ là quan điểm sai lầm nghiêm trọng”.
Học sinh Trường Trung học cơ sở Đoàn Thị Điểm. Ảnh minh họa: T.D
Nhận xét cũng rất tốt, nhưng không thể thay cho điểm số
Về việc đánh giá và phân loại học sinh, thầy Ngọc nói: “Nói đến đánh giá và phân loại, tôi thấy hiện nay chúng ta vẫn chưa tìm được “lối thoát” cho giáo dục. Từ bé cho đến nay hơn 80 tuổi, tôi đã trải qua rất nhiều trường lớp trong và ngoài nước, trải qua rất nhiều thang điểm mà thế giới hiện nay họ vẫn dùng thang điểm đó. Thời Tây cho điểm theo thang bậc 20, rồi xuống 10. Thời học theo Liên Xô chúng ta dùng thang điểm 5, và rồi bây giờ lại cho thang điểm 10.
Việc dùng thang điểm là có lí, chứ không phải cho điểm một cách tùy hứng. Vậy tại sao lại không căn cứ vào điểm số để đánh giá học sinh, như vậy là không lượng hóa được khái niệm. Cứ bảo là học sinh tiến bộ, tốt lắm, giỏi lắm…Nhưng việc đánh giá đó là cái gì thì cần phải có thang điểm. Còn người cho điểm đó như thế nào, có đúng hay không lại là chuyện khác. Theo tôi không dùng thang điểm để đánh giá là không được.
Thay chấm điểm bằng lời nhận xét là chưa chuẩn, nếu nói học sinh khá lắm, giỏi lắm, hay như sản xuất tốt lắm…nhưng không hề có số liệu cụ thể minh họa thì chúng ta biết nhìn vào đâu để cho là tốt? Cho nên tất cả các môn đã học đều phải có điểm đánh giá, còn lời nhận xét kèm theo cũng rất tốt, nhưng không thể thay thế cho điểm số lượng hóa của kiến thức. Còn việc cho điểm chính xác đến đâu cũng là vấn đề phải bàn”.
Theo thầy Ngọc: “Vấn đề phân loại, người ta nói rằng quan điểm phân loại nhưng tôi đã đọc và nghiên cứu rất kĩ nhưng không biết người soạn thảo Thông tư này họ muốn truyền đạt ý tưởng gì? Lâu nay, người ta phân loại trên thang điểm 10, nếu học sinh được 7 hay 8 điểm thì sẽ biết ngay học sinh đó ở bậc nào.
Bằng tốt nghiệp phổ thông ở Đức hoặc Pháp người ta ghi rất rõ là học sinh này tốt nghiệp ở mức bao nhiêu trên 20, nhìn vào ta biết ngay học sinh đó trình độ ở mức nào. Bây giờ chúng ta phân loại, trong phần khen có học sinh xuất sắc, học sinh giỏi, nhưng trong xếp loại lại không thấy có từ xuất sắc? Theo tôi về học lực cũng phải xếp như hạnh kiểm, có loại 1 là xuất sắc, loại giỏi và loại khá.
Hơn nữa, nếu quy định 6/8 môn trên 8 điểm làm chuẩn xếp loại là chưa đúng. Chúng ta khuyến khích học sinh phát triển theo năng khiếu thì tất cả các môn phải tính điểm chứ không phải có 8 môn, trong khi các môn như thể thao, mỹ thuật, âm nhạc … là tố chất năng khiếu bẩm sinh và biết đâu sẽ có thu nhập cao sau này.
Một học sinh giỏi sau này trở thành họa sỹ vẽ tranh rất đẹp, có thu nhập rất tốt thì giỏi thêm ngoại ngữ thôi, sao lại phải giỏi thêm 5 môn kia? Tôi thấy quan điểm đánh giá 6/8 môn là chưa đúng”.
Học sinh tiểu học trong giờ ngoại khóa. Ảnh minh họa: T.D.
Giấy khen “tiên tiến” là động lực thúc đẩy học sinh
Về vấn đề giấy khen, trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, nhà giáo Nguyễn Thị Thu – Cựu giáo chức ở Hà Nội nêu quan điểm:
“Theo Thông tư mới, chỉ khen thưởng học sinh xuất sắc và học sinh giỏi, nhưng không thấy nói đến khen thưởng cho học sinh có kết quả học lực khá. Như vậy học sinh khá sẽ có sự phấn đấu để đạt được danh hiệu học sinh giỏi. Nhưng cũng có thể học sinh khá đó sẽ không có động lực để phấn đấu vì nghĩ có cố gắng nữa cũng không thể đạt được.
Về vấn đề bỏ giấy khen học sinh tiến tiến tôi cho chưa sát với thực tế, việc phấn đấu trong mọi lĩnh vực cũng rất cần giấy khen kèm theo, đó cũng là ghi nhận. Truyền thống khen ngợi cũng rất cần, con người ta trong thi đua, trong học tập phải có vươn lên. Từ mức học sinh tiên tiến lên được học sinh giỏi là cả một sự cố gắng, nhưng giờ đây bỏ loại giấy khen này tôi cho là chưa động viên học sinh, chưa ghi nhận cố gắng khuyến khích các em phấn đấu.
Nhìn ở góc độ nào đó thì đây cũng là niềm tự hào của những học sinh có học lực khá, nhưng như vậy càng cần có sự động viên từ phía thầy cô và nhà trường qua tấm giấy khen. Với các bạn học giỏi thì không nói, còn với các em học lực luôn ở mức khá hoặc trung bình khá thì sẽ là điều không nên, tôi thấy như vậy không hợp lý. Cần sửa đổi thì nên chú trọng đến kiến thức, nên giảm tải chương trình, chứ không nên xoá bỏ những cái đang tốt như vậy.
Khen thì dễ còn chê mới khó bởi có rất nhiều chuyện. Giáo dục trong nhà trường còn có dạy học sinh làm người, việc giữa học chữ và học làm người thì các trường “cân đo” thế nào? Hơn nữa dạy người trong vai trò đức dục đòi hỏi chất lượng như thế nào?
Tôi đọc Thông tư chỉ thấy mỗi câu: Loại tốt là đạt tốt tất cả yêu cầu giáo dục của nhà trường, vậy tôi muốn hỏi những yêu cầu đó là gì để học sinh làm theo? Theo tôi chỗ này cực kì khó đối với quan niệm của từng thầy cô và từng chủ thể người học. Vậy nên rất cần cụ thể đến từng trường, từng lớp.
Vấn đề giáo dục trong nhà trường đi đôi với vấn đề dạy chữ là gì… thì trong Thông tư chưa nói được rõ ràng. Nếu không có hướng dẫn cụ thể dễ hiểu sai, việc đánh giá bằng nhận xét dễ sa vào sử dụng hình thức không phù hợp, theo lối mòn khiến việc này trở nên không thực chất”.
Bà Thu nhấn mạnh: “Có một số điểm thiếu nữa mà xã hội đang mong đợi nhưng tôi chưa thấy ở Thông tư, đó là lối thoát phân ngành hướng nghiệp cụ thể, có chất lượng cho học sinh từ tiểu học đến hết cấp III, tôi cho là không dứt khoát, mới chỉ thay đổi vài từ ngữ, thay đổi cách nói, cách đánh giá nhưng hướng đi là gì thì mọi người chưa thấy rõ.
Một vấn đề nữa là nhân cách, về tự do phản biện của học sinh, rồi tương tác giữa thầy cô và học trò, cái gì cho phép và không cho phép, cho phép mức độ thân mật đến đâu tôi đều chưa thấy rõ. Theo tôi Thông tư này chỉ thay đổi một chút về mặt hình thức, còn về bản chất, vấn đề cốt lõi của giáo dục thì chưa thấy”.
Thông tư đánh giá học sinh trung học: Đổi mới để trân trọng từng năng lực của học sinh
Cùng chương trình Giáo dục phổ thông (CT GDPT) 2018; Thông tư 22/2021 quy định về đánh giá học sinh THCS và THPT (gọi tắt là Thông tư 22) đã mang một "làn gió mới" vào các trường học trung học; đồng thời tạo sự động viên, khích lệ cho người học khi trân trọng từng năng lực của các em.
Thầy và trò tự tin hơn
Theo PGS.TS Nguyễn Xuân Thành- Vụ trưởng Vụ Giáo dục Trung học (Bộ GD&ĐT), tinh thần của Thông tư 22 là đánh giá vì sự tiến bộ của học sinh (HS), coi trọng sự động viên, khuyến khích HS và sự tương tác giữa thầy và trò chứ không phải chỉ ghi nhận xét vào trong sổ. Giáo viên có thể nhận xét, đánh giá ngay ở những bài tập và không phải bởi những điều chung chung (có cố gắng, có tiến bộ) mà cụ thể, trực tiếp vào những nội dung dạy học trong quá trình dạy.
Thông tư 22 quy định 2 hệ thống môn học là các môn đánh giá chỉ bằng nhận xét (Giáo dục thể chất, Nghệ thuật, Âm nhạc, Mỹ thuật. Nội dung giáo dục địa phương, Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp) và các môn đánh giá bằng nhận xét kết hợp điểm số (các môn học còn lại).
Thông tư 22 tôn trọng các năng lực khác nhau của học sinh
Tại thông tư này, không thấy xuất hiện các từ "yếu" hay "kém" vốn tạo cảm giác nặng nề cho người học nữa mà thay vào đó là cụm từ "chưa đạt". "Tuy cùng biểu thị mội nội dung nhưng ngôn từ đánh giá theo Thông tư 22 bao dung hơn, phần nào làm HS bớt mặc cảm"- cô Hoàng Thu Lan, giáo viên trường THCS Liên Mạc, huyện Mê Linh cho biết.
Một điều mới mẻ nữa thu hút nhiều sự quan tâm của HS, phụ huynh, đó là Thông 22 không lấy điểm trung bình các môn học làm căn cứ xếp loại học lực mà chỉ tính điểm riêng của từng môn. Cách đánh giá này được coi là "cởi mở" bởi giáo viên sẽ dễ dàng nhìn nhận được năng lực, xu hướng của từng HS; tạo cơ hội để HS được phát triển đúng năng lực, sở trường của mình
Tiêu chuẩn đánh giá học sinh theo Thông tư 22 yêu cầu với danh hiệu "Học sinh Giỏi" là mức "Đạt" (với môn đánh giá bằng nhận xét); và điểm trung bình môn học kỳ và điểm trung bình môn cuối năm (của các môn còn lại) đạt từ 6,5 điểm trở lên, trong đó có ít nhất 06 môn học đạt từ 8,0 điểm trở lên. Cách đánh giá này đã thiết lập một thái độ nhìn nhận ngang bằng giữa các môn học; xóa quan niệm cố hữu về các môn chính, môn phụ. Đây được coi là "nút mở" cho cả thầy cô và HS; nhất là với HS không có sở trường về các "môn chính" và các cô đang đảm trách "môn phụ" (theo cách nói trước đây).
Nâng tầm học sinh có năng lực nổi bật
Thông tư 22 có thêm danh hiệu "Học sinh xuất sắc" (đối với những HS có kết quả rèn luyện (cả năm) Tốt, kết quả học tập (cả năm) Tốt và có ít nhất 6 môn trung bình trên 9.
Vui mừng khi đọc điểm mới trên, phụ huynh Hứa Kim Hoa, quận Tây Hồ, Hà Nội bày tỏ: "Trước đây, danh hiệu cao nhất với cấp trung học là "Học sinh Giỏi" nên không phân biệt rõ những HS có năng lực vượt trội, toàn diện với HS giỏi thông thường. Nay có ghi nhận "Học sinh Xuất sắc" nên sẽ là đòn bẩy cho những HS muốn bứt phá. Theo tôi, việc bổ sung thêm tiêu chí này là rất ưu Việt; có giá trị nâng tầm, tôn vinh những HS tốp đầu và thực sự có thực lực".
Sẽ có thêm danh hiệu "Học sinh xuất sắc" đối với học sinh bậc trung học
Bày tỏ quan điểm về thông tư trên, ông Đặng Tự Ân- Giám đốc Quỹ Quốc gia đổi mới giáo dục phổ thông Việt Nam, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục tiểu học (Bộ GD&ĐT) cho biết: Đổi mới trong đánh giá HS đã được đề cập từ năm 2014 với bậc tiểu học; được điều chỉnh dần qua các năm và Thông tư 22 là sự kế tiếp, thể hiện hoàn chỉnh tiêu chí đánh giá HS theo tinh thần đổi mới giáo dục. Việc đánh giá học sinh tại Thông tư 22 sẽ giúp phát triển tốt đẹp quá trình giáo dục ở bậc trung học, khẳng định giá trị cốt lõi của giáo dục là phát huy năng lực của HS; do đó, thể hiện cho một nền giáo dục đi lên.
Tuy nhiên, không ít giáo viên, phụ huynh và HS cũng thắc mắc: Nếu theo cách đánh giá, xếp loại của Thông tư 22, lộ trình đổi mới trong thi cử, cụ thể là thi vào lớp 10 và thi tốt nghiệp THPT sẽ như thế nào bởi hiện tại các kỳ thi này, 3 môn Toán- Văn- Ngoại ngữ là môn cố định; và các trường đại học có tổ hợp xét tuyển "Toán- Văn- Ngoại ngữ" cũng rất nhiều. Giáo viên, phụ huynh, HS rất muốn biết sự thay đổi trong thi cử thời gian tới để có định hướng phù hợp cho các em trong quá trình học tập ở bậc trung học.
Thông tư 22 đánh giá kết quả học tập của người học theo 4 mức "Tốt, Khá, Đạt, Chưa đạt" đối với môn học đánh giá bằng nhận xét kết hợp với điểm số và 2 mức "Đạt, Chưa đạt" đối với môn chỉ đánh giá bằng nhận xét. Việc đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh được đánh giá theo một trong 04 mức: Tốt, Khá, Đạt, Chưa đạt.
Về hình thức khen thưởng, Thông tư 22 quy định Hiệu trưởng tặng giấy khen cuối năm ( cho "Học sinh Xuất sắc", "Học sinh Giỏi") và khen thưởng học sinh có thành tích đột xuất trong rèn luyện và học tập trong năm học. Với học sinh có thành tích đặc biệt sẽ được nhà trường đề nghị cấp trên khen thưởng.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 5/9/2021 và sẽ triển khai năm đầu tiên với lớp 6. Từ năm 2022 - 2023 sẽ theo lộ trình áp dụng cho lớp 7 và lớp 10; năm học 2023 - 2024 sẽ áp dụng cho lớp 8 và lớp 11; năm học 2024 - 2025 sẽ áp dụng với các lớp 9 và 12.
Vị thế môn chính-môn phụ không nằm ở Thông tư 22 mà ở chương trình, thi cử Việc phân bổ số tiết học/ tuần và quy định các môn thi tuyển sinh 10, thi tốt nghiệp trung học phổ thông và quy ước khối thi đã mặc định vị thế từng môn học. Chương trình, sách giáo khoa trước đây hay chương trình giáo dục phổ thông 2018 không có từ nào khẳng định các môn học như: Toán, Văn,...