Những yếu kém nào khiến Đại học Việt Nam không lọt vào bảng xếp hạng THE Châu Á?
Tạp chí Times Higher Education (THE) vừa công bố bảng xếp hạng 417 trường ĐH khu vực châu Á năm 2019 nhưng không có đại diện nào của Việt Nam. Vậy Đại học Việt Nam yếu kém những điểm gì? Bao giờ mới lọt vào bảng xếp hạng này?
Phóng viên Dân trí đã có buổi trao đổi với GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Đại học Quốc gia Hà Nội về vấn đề này.
Không bất ngờ
Thưa GS, tạp chí Times Higher Education (THE) vừa công bố bảng xếp hạng 417 trường ĐH khu vực châu Á năm 2019. Dù có khá nhiều trường của khu vực ASEAN lọt vào danh sách này nhưng không có đại diện nào của Việt Nam, GS nghĩ sao khi VN không có tên trong danh sách này?
Times Higher Education (THE) là tạp chí về tin tức và các vấn đề giáo dục đại học, có trụ sở ở London, Anh. Tạp chí nổi tiếng nhờ công bố bảng xếp hạng đại học thế giới hàng năm THE – QS, bắt đầu từ năm 2004.
Năm 2009, THE ngừng hợp tác với QS (tổ chức giáo dục Quacquarelli Symonds – Anh) và đưa ra bảng xếp hạng THE rất có uy tín.
Hệ thống xếp hạng THE dựa trên 3 tiêu chí Chất lượng nghiên cứu, chất lượng giảng dạy và mức độ quốc tế hóa với 13 chỉ số đánh giá.
Các thông số và dữ liệu được tập đoàn Thomson Reuters thu thập phân tích và 50 chuyên gia hàng đầu của 15 quốc gia cùng đưa ra bẳng xếp hạng.
Trong các tiêu chí xếp hạng của THE thì tổng trọng số danh tiếng trong đào tạo và nghiên cứu chiếm 25%, trích dẫn từ các công bố khoa học chiếm 30%, tổng thu nhập từ đào tạo, nghiên cứu và hợp đồng thu hút từ công nghiệp và các doanh nghiệp là 17,5%.
Vì vậy, tôi không bất ngờ khi chưa có đại diện của Việt Nam tham gia vào bảng xếp hạng THE.
Với các tiêu chí như trên, thì rất rõ ràng là việc chúng ta chưa có trường đại học nào lọt vào bảng xếp hạng THE là dễ hiểu. Xếp hạng theo THE không chỉ là chuyện riêng của các trường đại học, mà còn là phản ánh khách quan trình độ và mức độ phát triển của nền kinh tế, nền sản xuất và nền công nghiệp của đất nước chúng ta.
Chúng ta phải đánh giá thật công bằng với những thành tựu mà giáo dục đại học Việt Nam đã đạt được trong những năm qua. Đặc biệt từ khi có Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam.
Thể hiện lớn nhất ở 3 điểm nổi bật như tôi đã từng đánh giá là: hội nhập quốc tế, chất lượng đào tạo (đào tạo gắn với nghiên cứu, với thị trường và công bố quốc tế) và chuyển dịch mạnh mẽ, thành công cơ cấu ngành nghề, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu nhân lực của xã hội và ngày càng phù hợp với xu thế của thời đại.
5 năm về trước, năm 2013, tổng công bố quốc tế của cả Việt Nam hết sức khiêm tốn, chỉ ở mức 2.309 bài. Tuy nhiên, theo thống kê mới đây nhất của nhóm nghiên cứu độc lập (Trường ĐH Duy Tân), tính từ 2017 đến thời điểm công bố vào tháng 6-2018, chỉ riêng công bố quốc tế của 30 trường đại học (hàng đầu) Việt Nam đã đạt 10.515 bài.
Thông qua thúc đẩy phát triển các nhóm nghiên cứu (NNC), các trường đại học đã có sự chuyển biến mạnh cả về lượng và chất. Theo thống kê chưa đầy đủ, đến nay trong các trường đại học Việt Nam đã có gần 1000 NNC.
Lần đầu tiên trong lịch sử giáo dục đại học Việt Nam, vào năm 2018, 2 Đại học Quốc gia có tên trong danh sách xếp hạng 1000 trường hàng đầu thế giới theo bảng xếp hạng QS; trên 10 cơ sở GDĐH của Việt Nam có tên trong các bảng xếp hạng nghiên cứu SCImago.
Ngoài ra, còn có 3 cơ sở GDĐH được chứng nhận 3 sao theo QS-Stars. Những thành tích này không phải trên trời rơi xuống. Mà thực sự là sự nỗ lực vượt bậc của các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam trên con đường hội nhập với các chuẩn mức trình độ quốc tế.
Video đang HOT
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức
GS có thể phân tích kỹ hơn về tiêu chí đánh giá bảng xếp hạng này?
Năm 2019, phương pháp đánh giá để xếp hạng của THE như sau:
Tiêu chí giảng dạy chiếm 25% (trước đây giảng dạy chiếm 30%); với các chỉ số như danh tiếng (10%), tỷ lệ giảng viên/sinh viên (4,5%), tỷ lệ tiến sĩ/cử nhân (2,25%), tỷ lệ tiến sĩ/giảng viên (6%), thu nhập (2,25%).
Tiêu chí nghiên cứu chiếm trọng số 30%. Cụ thể, danh tiếng chiếm 15%, thu nhập từ nghiên cứu chiếm 7,5%, năng suất nghiên cứu chiếm 7,5%.
Với trọng số 30% dành cho trích dẫn khoa học, THE xem xét vai trò của đại học trong việc truyền bá tri thức và ý tưởng mới. Mức độ ảnh hưởng của nghiên cứu được kiểm tra bằng cách thu thập số lần tác phẩm của một đại học được trích dẫn bởi học giả toàn cầu. Các trích dẫn giúp mọi người biết được mỗi trường đại học đóng góp bao nhiêu cho tổng thể tri thức nhân loại.
Tiêu chí về hợp tác quốc tế chiếm trọng số 7,5%, bao gồm tỷ lệ sinh viên quốc tế/sinh viên trong nước (2,5%), tỷ lệ giảng viên quốc tế/giảng viên trong nước (2,5%), hợp tác quốc tế (2,5%). Khả năng thu hút được sinh viên đại học, sau đại học và giảng viên từ khắp nơi trên thế giới là chìa khóa dẫn đến thành công trong việc củng cố vị thế quốc tế của trường đại học.
Năm nay, tiêu chí thu nhập từ chuyển giao tri thức cho công nghiệp được chiếm tới 7,5% (trước đây một số năm, trọng số này chỉ khoảng 2,5%). Đây được xem là một trong những nhiệm vụ cốt lõi của một cơ sở giáo dục đại học trong bối cảnh hiện nay.
Từ các tiêu chí đánh giá của THE như trên có thể thấy tỷ trọng về danh tiếng chiếm 25%, trích dẫn khoa học chiếm 30% và thu nhập các loại chiếm 17,5%.
Đây chính là thách thức lớn của xếp hạng THE với các trường đại học Việt nam, và là lý do đến nay chúng ta chưa có trường đại học nào lọt vào bảng xếp hạng THE.
Trong các bảng xếp hạng đại học thì xếp hạng theo QS Châu Á là phù hợp và dễ đạt được nhất với các trường đại học Việt Nam.
Phải tiếp cận từng bước
Vậy 2 trường ĐH lọt vào top 1000 thế giới và nhiều trường khác lọt top 450-500 bảng xếp hạng của tổ chức QS là như thế nào thưa GS?
Hệ thống xếp hạng QS World tập trung vào 4 khía cạnh: Chất lượng nghiên cứu, chất lượng giảng dạy, chất lượng sinh viên và khả năng quốc tế hóa của nhà trường.
Các tiêu chí và trọng số của bảng xếp hạng QS dựa vào đánh giá bên ngoài và cả bên trong trường đại học, bao gồm kết quả khảo sát đánh giá đồng cấp, khảo sát nhà tuyển dụng, tỷ lệ sinh viên/giảng viên, số lượng bài báo được trích dẫn và số lượng giảng viên, sinh viên quốc tế.
Cũng tương tự THE, xếp hạng QS đánh giá theo tiêu chí cứng và cả tiêu chí mềm. Tiêu chí cứng chiếm 66,67%, tiêu chí mềm chiếm 33.33%.
Cách thu thập dữ liệu của QS World cũng dựa vào 3 cách: Khảo sát xã hội học; cơ sở dữ liệu của bên thứ 3 và do chính các trường cung cấp. Trong bảng xếp hạng QS, các trường cung cấp dữ liệu cho các tiêu chí chiếm đến hơn 50%.
Trên thực tế hiện nay, đã có một số trường đại học của các nước châu Á tham gia vào hệ thống xếp hạng này và đã lọt vào top 500 trường hàng đầu của bảng xếp hạng QS World như Malaysia, Thai Lan, Indonesia,…và 2 ĐHQG của Việt nam đã lọt vào top 1000 trường đại học hàng đầu trong bảng xếp hạng này vào năm 2018. Việc tham gia xếp hạng QS của các trường đại học Việt Nam là hoàn toàn khả thi.
Bên cạnh xếp hạng QS World còn có xếp hạng QS Châu Á, xếp hạng đại học dựa vào 9 tiêu chí sau: Uy tín học thuật 30%, uy tín các trường thông qua nhà tuyển dụng 10%, tỷ lệ giảng viên/sinh viên 20%, trích dẫn bài báo khoa học 15%, số lượng bài báo khoa học trên mỗi giảng viên 15%, tỷ lệ giảng viên quốc tế 2,5%, tỷ lệ sinh viên trao đổi trong nước 2,5%, tỷ lệ sinh viên ra nước ngoài 2,5%.
Như vậy, trong các bảng xếp hạng đại học thì xếp hạng theo QS Châu Á là phù hợp và dễ đạt được nhất với các trường đại học Việt Nam.
Theo tôi, chúng ta nên tiếp cận từng bước, có thứ hạng cao hơn trong QS Châu Á thì mới nên tiếp tục nghĩ đến các bảng xếp hạng có tính toàn cầu như ARWU (của Trường ĐH Giao thông Thượng Hải), THE, QS World.
Những năm trước đây, trước khi lọt vào top 1000 đại học hàng đầu thế giới theo bảng xếp hạng QS World, 2 ĐHQG cũng đã từng có thứ hạng cao trong bảng xếp hạng QS Châu Á.
Các chuyên gia đều có chung nhận định hầu hết các tiêu chí xếp hạng của THE Ranking là thách thức rất lớn đối với các ĐH Việt Nam. Hay nói cách khác, các tiêu chí đánh giá của THE Ranking hầu hết lại là điểm yếu của tất cả các ĐH ở Việt Nam. Ý kiến GS thế nào?
Đúng vậy, các tiêu chí và cách xếp hạng của THE là thách thức lớn với các trường đại học Việt Nam.
Từ thực tiễn cho thấy các trường đại học xếp hạng cao thường rơi vào các nước phát triển. Để có thứ hạng cao trong xếp hạng THE phải có uy tín và chất lượng cao trong đào tạo, nghiên cứu.
Nhà trường phải có nhiều kết quả nghiên cứu xuất sắc và có tầm ảnh hưởng, phải luôn đồng hành cùng doanh nghiệp và nghiên cứu cái mà doanh nghiệp cần để tăng năng suất và sức cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Cải thiện chỉ số xếp hạng đại học theo THE không đơn giản chỉ là nhiệm vụ và nỗ lực của trường đại học, mà còn mang hơi thở, phản ánh và chịu sự tác động lớn của sự phát triển kinh tế -xã hội của đất nước.
Tôi muốn nhấn mạnh là cách mạng công nghiệp 4.0 đang mang lại cơ hội cho mọi người, mọi nhà, mọi cơ quan tổ chức, ở mọi nơi mọi lúc. Hoạt động nghiên cứu, đổi mới và sáng tạo cũng không còn ranh giới, không còn khoảng cách về không gian và thời gian.
Thu hút nhân tài, cũng như Uber hóa trong giáo dục đại học đang trở thành xu thế và phương thức chia sẻ, huy động nguồn lực và nắm bắt cơ hội. Vì vậy, các trường đại học Việt nam có thể tận dụng thời cơ này để nhanh chóng cải thiện các chỉ số xếp hạng quan trọng nêu trên.
Thưa GS, với tình trạng đa số trường ĐH mạnh của Việt Nam chỉ có mức công bố bình quân trên dưới 100 bài Scopus/năm (rơi vào tiêu chí loại) thì rõ ràng là khoảng 5 -10 năm nữa, Việt Nam sẽ không có trường đại học nào lọt vào bảng của THE?
THE rất coi trọng kết quả nghiên cứu. Công bố, trích dẫn và chuyển giao tri thức chiếm tỷ trọng lớn. Trong khi hiện nay công bố quốc tế của các trường đại học Việt Nam còn rất khiêm tốn. Chúng ta cũng mới chỉ có hơn 10 cơ sở giáo dục đại học được lọt vào bảng xếp hạng nghiên cứu SCImago. Tôi cho rằng xếp hạng theo THE của đa số các trường đại học Việt Nam sẽ vẫn là vấn đề thời gian.
Việc lọt vào bảng xếp hạng SCImago là tín hiệu tốt cho việc có thể chuẩn bị để tham gia xếp hạng THE.
Tuy nhiên, trước hết phải thay đổi trong nhận thức. Muốn được xếp hạng thì phải đầu tư tâm huyết và công sức cho việc xếp hạng này.
Tôi tin tưởng một ngày không xa, sẽ có trường đại học của Việt Nam tham gia và được lọt vào bảng xếp hạng THE.
Theo một số thông tin tôi biết, hiện nay đã có một số trường đại học Việt Nam đang tích cực chuẩn bị cho sự tham gia bảng xếp hạng này.
Xin trân trọng cảm ơn GS.
Hồng Hạnh ( thực hiện)
Theo Dân trí
Tiêu chí nào đo lường chất lượng đại học?
Hội thảo với chủ đề "Đo lường khoa học và xếp hạng đại học" vừa được tổ chức đã thu hút khá nhiều chuyên gia, các nhà quản lý tham gia bàn về những vấn đề nóng của giáo dục đại học Việt Nam. Tại đây, các chuyên gia nêu kiến nghị Việt Nam cần phải có bảng xếp hạng các cơ sở giáo dục đại học (ĐH).
Thành tựu nghiên cứu khoa học là thước đo
GS Nguyễn Văn Tuấn, ĐH New South Wales (Australia) cho biết, ở các đại học phương Tây, người ta thường dùng ba chỉ số chính để đánh giá năng lực một nhà khoa học gồm: số lượng ấn phẩm khoa học, hệ số ảnh hưởng (Impact factor, thường viết tắt là IF) và chỉ số Hirsch (viết tắt là H index). Một số lớn các trường ĐH phương Tây thường dựa vào số lượng bài báo khoa học như là một tiêu chuẩn để xét duyệt đề bạt các chức danh khoa bảng. Tuy không có quy định cụ thể là ứng viên phải có bao nhiêu bài báo để được xét duyệt, nhưng thông thường, thí dụ trong ngành y, những con số được "hiểu ngầm" như giáo sư dự khuyết (assistant professor) phải có từ năm bài báo trở lên; phó giáo sư thì ít nhất là 30; giáo sư thì ít nhất là 50, nhưng thường là 100.
Các viện nghiên cứu khoa học, trường ĐH, các trang mạng chuyên về khoa học như Research Gate, Google Scholar... thường dùng tổng số trích dẫn mà một nhà khoa học được các nhà khoa học khác trích dẫn (H index) như một thước đo vàng về "cấp bậc" trong khoa học. Ngày nay, các tập san khoa học danh tiếng như Nature, Science, Cell, PNAS... và các cơ quan quản lý khoa học ở châu Âu, châu Mỹ, Australia đều sử dụng chỉ số H index làm cơ sở cho đề bạt, cấp tài trợ và đánh giá thành công của một nhà khoa học hay một nhóm nghiên cứu...
TS Lê Văn Út, Trưởng phòng Quản lý khoa học và công nghệ Trường ĐH Tôn Đức Thắng thống kê: Cơ sở dữ liệu Web of Science (WoS) được xem là cơ sở dữ liệu hàng đầu thế giới về thông tin khoa học. WoS được sở hữu bởi Clarivate (Mỹ), hiện WoS có dữ liệu của 16.257 tạp chí uy tín hàng đầu thế giới từ tất cả các chuyên ngành. Tuy nhiên, hiện nay rất ít các trường ĐH, viện nghiên cứu ở Việt Nam mua quyền truy cập WoS.
Phân tích năng lực khoa học của Việt Nam, TS Lê Văn Út cho rằng, thành tựu về nghiên cứu khoa học là thước đo chính cho sự phát triển của một quốc gia, đẳng cấp của một ĐH và của nhà khoa học. Trích từ dữ liệu WoS cho thấy, trong giai đoạn 2014-2018, công bố khoa học quốc tế của Việt Nam có bước phát triển đáng kể. Năm 2014 có 3.482 bài nhưng đến năm 2018 cả nước có 6.187 bài thuộc danh mục ISI. Tuy nhiên, kết quả này cũng chỉ giúp Việt Nam đứng giữa bảng xếp hạng của khu vực Đông - Nam Á. Dẫn đầu bảng xếp hạng là Malaysia với hơn 114.000 bài, Singapore hơn 99.000 bài, Thái-lan hơn 63.000, Indonesia hơn 47.000... Công bố khoa học từ Việt Nam tăng nhanh trong thời gian 5 năm qua (18%/năm, một sự tăng trưởng rất cao) nhưng số lượng vẫn rất thấp (chỉ cao hơn Philippines). Một điều đáng chú ý nữa là đa số (gần 80%) công bố khoa học từ Việt Nam là do hợp tác quốc tế. Do đó, chất lượng nghiên cứu của Việt Nam còn khiêm tốn.
Phải xây dựng bảng xếp hạng của Việt Nam
TS Nguyễn Quốc Chính, Giám đốc Trung tâm Khảo thí và đánh giá chất lượng thuộc ĐH Quốc gia TP Hồ Chí Minh cho rằng, xếp loại, xếp hạng các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) đang trở thành xu thế mang tính toàn cầu, thu hút được sự quan tâm của các nhà quản lý giáo dục, giới học thuật và các bên liên quan trong xã hội. Động lực chủ yếu của xu thế này là yêu cầu nâng cao hơn nữa chất lượng và trách nhiệm giải trình của các cơ sở GDĐH trong bối cảnh một thế giới cạnh tranh và thay đổi nhanh chóng.
Hoạt động này mang đến nhiều lợi ích thiết thực khi cung cấp cho các bên liên quan những thông tin hữu ích để đánh giá chất lượng cũng như làm cơ sở cho việc cải tiến chất lượng của cơ sở GDĐH. Đến nay, trên thế giới đã có hơn 60 hệ thống xếp hạng cấp quốc gia, khu vực và quốc tế, thu hút được sự quan tâm của các chính phủ, nhà nghiên cứu, nhà quản lý giáo dục, phụ huynh, học sinh và các doanh nghiệp, xã hội. TS Nguyễn Quốc Chính thẳng thắn: "Với bảng xếp hạng ARWU (Trung Quốc), THE (Mỹ) chúng ta không đủ năng lực nên tham gia vô ích. Do đó, hiện nay chúng ta chọn QS (của Anh) hướng cho cả thế giới và châu Á thì phù hợp nhất".
Dẫn chứng thực tế, TS Nguyễn Quốc Chính cho rằng, rất nhiều quốc gia đã có bảng xếp hạng và trong khu vực Malaysia cũng đã có nhưng Việt Nam thì chưa. Tại Việt Nam, nội dung phân tầng xếp hạng các cơ sở GDĐH đã được quy định trong Luật Giáo dục ĐH năm 2012 và quy định cụ thể hóa thông qua Nghị quyết số 73/2015/NQ-CP về việc Quy định tiêu chuẩn phân tầng, khung xếp hạng và tiêu chuẩn xếp hạng các cơ sở GDĐH.
Tuy nhiên, quá trình triển khai thực tế bộc lộ nhiều bất cập, dẫn đến những ý kiến trái chiều về tính khả thi và độ giá trị của hoạt động phân tầng xếp hạng. Nhiều vấn đề đã được xác định nhưng chưa có phương án giải quyết phù hợp. Với những lập luận trên, TS Chính cho rằng, Việt Nam phải bắt tay xây dựng ngay những quy chuẩn về xếp hạng ĐH để đánh giá trung thực, khách quan các ĐH thì mới có thể nói đến phân tầng, đầu tư cho thỏa đáng.
Chia sẻ với TS Chính, GS Nguyễn Văn Tuấn cho rằng: "Về bảng xếp hạng của quốc gia, tôi kiến nghị phải bảo đảm được bốn mục tiêu: khẳng định được uy tín của các trường ĐH Việt Nam, tăng tính toàn cầu hóa, nâng cao chất lượng nghiên cứu và đào tạo, nâng cao năng lực khoa học và công bố quốc tế của Việt Nam".
GS Nguyễn Hữu Đức, Phó Giám đốc ĐH Quốc gia Hà Nội cho rằng, trách nhiệm của các ĐH Việt Nam phải là một hệ sinh thái đổi mới, sáng tạo, thông minh, ứng dụng hiệu quả các công nghệ 4.0 phục vụ đào tạo và nghiên cứu. Đào tạo phải hướng đến nguồn nhân lực có tinh thần khởi nghiệp. Khoa học và công nghệ phải là động lực của đổi mới sáng tạo và phát triển quốc gia.
Theo nhandan
Những ĐH hàng đầu thế giới về khoa học xã hội Tạp chí Times Higher Education vừa công bố bảng xếp hạng ĐH hàng đầu thế giới trong lĩnh vực khoa học xã hội, cho thấy ĐH Oxford đứng đầu danh sách này. Đại học Oxford đứng đầu Bảng xếp hạng ĐH thế giới về lĩnh vực khoa học xã hội - OX.AC.UK Theo sau ĐH Oxford trong 10 vị trí đầu của bảng...