Nhiều rào cản với giáo dục sớm
Chương trình GD mầm non (GDMN) Việt Nam đã thể hiện các nội dung giáo dục sớm (GDS), tuy nhiên thực tế cho thấy đa số trẻ em dưới 36 tháng tuổi chưa được tiếp cận với GDS có chất lượng… bởi nhiều nguyên nhân.
GDS góp phần khai mở tiềm năng cho mỗi trẻ em. Cô và trò Trường MN Việt Hà (TP Lào Cai – Lào Cai). Ảnh: Đức Trí
Rào cản với GDS
ThS Bùi Thị Kim Tuyến – Viện Nghiên cứu giáo dục phát triển tiềm năng con người (IPD) cho biết đến nay cả nước mới chỉ có một số tổ chức phi chính phủ và trường MN tư thục quan tâm đến GDS với việc nghiên cứu thực hành chương trình GDS dựa trên các phương pháp giáo dục của Nhật, Mỹ, Ý, Trung Quốc… và bước đầu đã đạt được một số kết quả khích lệ trên trẻ từ 0 – 3 tuổi.
Cùng đó, một số gia đình và phụ nữ mang thai đã quan tâm tìm hiểu về thai giáo và GDS ở gia đình với sự tiếp cận của tài liệu nước ngoài…
Năm 2011, Hội Giáo dục chăm sóc sức khỏe cộng đồng Việt Nam thành lập IPD để triển khai nghiên cứu các phương pháp GDS và thí điểm xây dựng các mô hình GDS linh hoạt và phù hợp với điều kiện của Việt Nam nhằm góp phần khai mở tiềm năng thể lực và trí lực của trẻ em trong độ tuổi MN…
Tuy nhiên, với những điều kiện thực tế như vậy thì các nhà khoa học vẫn chỉ ra việc triển khai GDS ở Việt Nam còn nhiều rào cản cần tháo gỡ.
Theo PGS. TS Nguyễn Thị Mĩ Trinh – Giám đốc Trung tâm nghiên cứu GDMN (Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam), rào cản trước tiên đó là chúng ta chưa nhận thức phù hợp về tầm quan trọng của giai đoạn phát triển “1.000 ngày đầu đời” và GDS cho trẻ em, cũng như trách nhiệm của cha mẹ, cộng đồng xã hội đối với GDS cho trẻ.
Video đang HOT
Cùng đó các dịch vụ hỗ trợ GDS ở gia đình và cộng đồng và việc xây dựng đội ngũ nhân lực thực hiện dịch vụ GDS còn gặp nhiều rào cản cả về chính sách lẫn thực tiễn. Hiện nay, khung chất lượng GDS của các trung tâm chăm sóc, giáo dục trẻ dưới 36 tháng tuổi để vừa tạo điều kiện phát triển vừa quản lý được chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ vẫn còn thiếu.
Các chương trình/đề án/dịch vụ hỗ trợ kiến thức, kĩ năng GDS cho cha mẹ trẻ ở các cơ sở GDMN, bệnh viện, các trung tâm tư vấn… vẫn cần được nghiên cứu phát triển để cung cấp dịch vụ tư vấn phù hợp với đối tượng tham gia có đóng phí hoặc miễn phí.
Vấn đề bồi dưỡng kiến thức, kĩ năng làm cha mẹ, kiến thức về dinh dưỡng, y tế và sức khỏe cho những người chuẩn bị kết hôn, chuẩn bị sinh con cần được các cơ quan chức năng quan tâm, đẩy mạnh hơn nữa…
PGS.TS Nguyễn Thị Mĩ Trinh khẳng định: Chăm sóc, giáo dục trẻ từ độ tuổi MN được coi là nền tảng cho sự phát triển nguồn lực con người, phục vụ mục tiêu phổ cập giáo dục TH và THCS thế kỷ XXI. Để đạt được mục tiêu đó, công tác chăm sóc, giáo dục trẻ cần được tiến hành sớm và cần có có sự tiếp thu từ những kinh nghiệm tích hợp nội dung.
Nhiệm vụ GDS cần được sự quan tâm đồng bộ của toàn xã hội từ việc đào tạo GV MN tới chăm sóc, giáo dục trẻ trong các cơ sở MN, tại gia đình và cộng đồng. Hơn thế cần sớm có giải pháp hỗ trợ phù hợp để giảm rào cản trong việc nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục MN trong bối cảnh hiện nay.
Việc lồng ghép GDS vào chương trình GDMN được nhiều quốc gia áp dụng. Cô và trò Trường MN Việt Hà (TP Lào Cai – Lào Cai). Ảnh: Đức Trí
Thúc đẩy GDS bắt đầu từ chương trình GDMN
Hiện nay, chương trình GDMN của một số nước trên thế giới được xây dựng theo các cấp độ (quốc gia, địa phương, nhà trường). Tùy theo từng cấp độ của chương trình GDMN và hệ thống quản lý giáo dục trẻ em dưới 36 tháng tuổi của từng nước mà vấn đề đưa nội dung GDS vào chương trình được triển khai khác nhau.
Mặt khác, việc lồng ghép GDS vào chương trình GDMN của nhiều quốc gia dựa trên quan điểm giáo dục hòa nhập với các cách tiếp cận: Lấy trẻ làm trung tâm, phát triển toàn diện, đảm bảo công bằng, bình đẳng. Bên cạnh đó tập trung phát triển năng lực cảm xúc cá nhân – xã hội ở trẻ, chú trọng GDS gắn với bối cảnh xã hội, chú trọng GDS không chỉ ở trường/trung tâm chăm sóc, mà cả GDS cho trẻ ở gia đình, đặc biệt với trẻ ở lứa tuổi nhỏ, những trẻ chưa tới trường.
Các chương trình GDMN của hầu hết các quốc gia chú trọng phát triển toàn diện cho trẻ thông qua các lĩnh vực cơ bản. Ngoài việc đưa ra các nội dung GDS phát triển toàn diện về thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, thẩm mĩ, một số quốc gia còn chú trọng đến giáo dục hiểu biết về bản thân, gia đình, thành viên trong cộng đồng…
Trong khi đó, theo PGS.TS Nguyễn Thị Mĩ Trinh: Chương trình GDMN Việt Nam hiện hành là chương trình khung quốc gia thực hiện chăm sóc, giáo dục trẻ từ 3 tháng đến 6 tuổi. Nếu coi GDS là giáo dục trẻ “1.000 ngày đầu đời” thì chương trình hiện nay đã quan tâm đến độ tuổi này (từ 3 tháng tuổi đến 3 tuổi) với mục tiêu, các lĩnh vực giáo dục, nội dung, kết quả mong đợi theo độ tuổi… được xây dựng dựa trên đặc điểm phát triển của trẻ, hướng tới sự phát triển toàn diện, tạo nền tảng vững chắc cho trẻ vào học mẫu giáo.
Tuy nhiên, qua rà soát chương trình vẫn cho thấy giai đoạn thai giáo (trong bụng mẹ) như là một điều kiện để thực hiện hiệu quả chương trình cần có sự quan tâm thỏa đáng của xã hội và ngành giáo dục trong sự phối hợp liên ngành bởi GDS không chỉ hướng tới đội ngũ những người làm giáo dục mà còn phải hướng tới các bậc cha mẹ và toàn thể cộng đồng.
TS Nguyễn Thị Nga – Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam cũng cho rằng, giáo dục hòa nhập cho trẻ em dưới 36 tháng nói riêng và GDS trong chương trình GDMN nói chung chưa được thể hiện rõ. Vì chưa có chương trình giáo dục địa phương nên trong chương trình quốc gia về GDMN chưa đậm nét những nội dung giáo dục đa văn hóa để làm phong phú thêm hiểu biết của trẻ em về bản sắc văn hóa của Việt Nam và những đặc trưng trong truyền thống văn hóa của một số nước trên thế giới.
Mặt khác cũng chưa có các nội dung GDS về nghệ thuật và sáng tạo để giúp trẻ tiếp cận đa dạng với các nghệ thuật, phương thức thể hiện bản thân và phương thức sáng tạo, từ đó hình thành cảm xúc thẩm mĩ phù hợp.
Chương trình cũng thiếu các các quy định để tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm, thể hiện cảm xúc phù hợp, vận dụng và giải quyết vấn đề phát sinh trong các quan hệ cá nhân – xã hội.
Rõ ràng sự phát triển của trẻ trong những năm đầu đời là giai đoạn phát triển quan trọng nhất của một con người, là nền tảng cho sự phát triển về thể chất lẫn tinh thần. Vì vậy, để phát huy vai trò của GDS, điều cần thiết không chỉ là tháo gỡ những rào cản hiện tại mà hơn thế như ThS Bùi Thị Kim Tuyến khẳng định, cần đưa GDS vào chương trình GDMN trong giai đoạn tới.
GDS là phương pháp giáo dục được áp dụng với trẻ em ngay từ khi là bào thai trong bụng mẹ cho đến năm 6 tuổi… GDS góp phần khai mở tiềm năng, phát triển năng lực trong suốt cuộc đời của một con người. Vận dụng triển khai giáo dục sớm cho trẻ em Việt Nam có ý nghĩa chiến lược góp phần thực hiện quan điểm của Đảng, Nhà nước: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài trong sự nghiệp CNH, HĐH hội nhập quốc tế của nước ta. – NGND.PGS.TS.BS Nguyễn Võ Kỳ Anh
Giáo dục sớm không phải là nhồi nhét kiến thức cho trẻ
Mục tiêu của giáo dục sớm không nhằm nhồi nhét kiến thức mà giáo dục góp phần kích hoạt được các năng lực thiên bẩm của trẻ...
Giáo dục sớm nhằm kích hoạt năng lực thiên bẩm của trẻ
Ngày 26/11, Hội giáo dục chăm sóc sức khỏe cộng đồng Việt Nam và Viện nghiên cứu giáo dục phát triển tiềm năng con người đã tổ chức Hội thảo khoa học toàn quốc giáo dục sớm phát triển năng lực trẻ em trong những đầu đời - Lý luận và thực tiễn.
Nhà giáo nhân dân Nguyễn Võ Kỳ Anh, Viện trưởng Viện nghiên cứu giáo dục phát triển tiềm năng con người chia sẻ: Trong thực tế, quá trình chăm sóc và giáo dục từ xưa đến nay có nhiều quan điểm chưa đồng nhất. Nhiều người cho rằng "trời sinh voi, trời sinh cỏ" hoặc chỉ chú ý đến việc nuôi trẻ sao cho lớn, khỏe, khi trẻ lên 3, lên 6 mới cho trẻ đi học. Ngược lại một số lại muốn trẻ em cần được giáo dục sớm để có thể trở thành "thần đồng", hay "thiên tài". Những quan điểm này hoàn toàn lệch lạc.
Ông Kỳ Anh cho biết thêm, gần đây, có nhiều bậc cha mẹ đã quan tâm đến việc giáo dục trẻ từ sớm ngay từ khi bà mẹ mang bầu đến khi trẻ 6 tuổi theo các triết lý và phương pháp giáo dục tiên tiến của các nước có nền giáo dục hiện đại mà họ tiếp thu được. Tuy nhiên, điều này cũng chưa hoàn toàn đúng, mà ngoài ứng dụng của quốc tế, mô hình giáo dục sớm những năm đầu đời còn cần phù hợp với nền văn hóa Việt Nam.
Việc giáo dục sớm có thể bắt đầu từ thai giáo, khi người mẹ mang bầu cần được chăm lo chu đáo, thai nhi cũng được chăm sóc qua hành động vỗ về, thủ thỉ, tiếp cận âm nhạc từ cha mẹ; Khi trẻ ra đời cha mẹ giáo dục sớm trẻ qua việc tương tác, kích thích đa giác quan cho trẻ.... 1.000 ngày đầu đời được đánh giá là giai đoạn vàng để giáo dục sớm hiệu quả.
"Mục tiêu của giáo dục sớm không nhằm nhồi nhét kiến thức mà giáo dục góp phần kích hoạt được các năng lực thiên bẩm của trẻ, nhằm khai mở tiềm năng, phát triển năng lực của trẻ trong những năm đầu đời, hình thành nền tảng tốt đẹp cho cả đời người. Tố chất cơ bản giáo dục sớm cho trẻ chính là sức khỏe tốt, đầu óc linh hoạt, sáng tạo; Có niềm đam mê hứng thú; Tính cách tốt; Biết yêu thương và giao tiếp; Phát triển ngôn ngữ; Yêu thiên nhiên và những sự vật tốt đẹp...", ông Kỳ Anh nhấn mạnh.
Đánh giá cao giá trị giáo dục sớm cho trẻ, PGS.TS. Nguyễn Thị Mỹ Trinh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục Mầm non cũng nhận định, thực tế dù chương trình mầm non của Việt Nam hiện hành có chăm sóc và giáo dục trẻ từ 3 tháng tuổi - 6 tuổi nhưng vẫn có nhiều rào cản cho việc giáo dục sớm ở Việt Nam.
Đó là chưa có nhận thức phù hợp về tầm quan trọng phát triển "1.000 ngày đầu đời" và giáo dục sớm cho trẻ; cũng như trách nhiệm của cha mẹ, cộng đồng xã hội đối với giáo dục sớm cho trẻ. Bên cạnh đó, các dịch vụ hỗ trợ giáo dục sớm ở gia đình và cộng đồng chưa đầy đủ. Và hơn cả để thực hiện giáo dục sớm cho trẻ thì đối tượng cần đào tạo kỹ năng, kiến thức chính là cha mẹ, giáo viên mầm non vẫn còn bỏ ngỏ....
Trong 10 năm qua Viện Nghiên cứu giáo dục phát triển tiềm năng con người (IPD) đã tổ chức nhiều hoạt động liên quan đến nghiên cứu, thực nghiệm, chuyển giao công nghệ giáo dục sớm, tư vấn, tham gia đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến và ứng dụng tri thức khoa học nhằm giáo dục phát triển toàn diện tiềm năng, tố chất con người về thể lực, trí lực và tinh thần cho trẻ từ 0 đến 6 tuổi. Do đó, đến nay giáo dục sớm đã trở thành trào lưu sâu rộng trong cộng đồng.
Phát triển mầm non ngoài công lập: Lấy chất lượng làm "thước đo" thương hiệu Trong những năm gần đây giáo dục mầm non (GDMN) của thành phố Lào Cai (Lào Cai) có bước phát triển mạnh. Đặc biệt số lượng trường, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập tư thục tăng về quy mô, chất lượng... HS được trải nghiệm với nhiều mô hình giáo dục mới, hiện đại tại Trường MN Việt Hà (thành phố Lào...