Nhà văn Nguyễn Quang Vinh: “Chúng ta dạy chữ, dạy kiến thức cho con trẻ không phải là cách sắp đặt chữ vào đầu”
Nếu bỏ qua vẻ đẹp của ngôn từ, bỏ qua sự tinh tế của câu chữ, bỏ qua cảm xúc, ngữ điệu văn của từng câu, từng đoạn văn, chỉ chú ý đến thao tác kĩ thuật từ mới, thì chắc chắn không chỉ thất bại mà còn nguy hiểm.
* Bài viết thể hiện quan điểm cá nhân của tác giả, không thuộc về tòa soạn.
Nguyễn Quang Vinh, sinh năm 1959 ở Quảng Bình, là nhà văn, nhà biên kịch (điện ảnh, truyền hình, sân khấu), đạo diễn nhiều chương trình nghệ thuật. Các tiểu thuyết trước đây của ông: Người và dã thú, Dòng sông vàng, Người thất bại trở về, Phía Mặt trời lặn, Đêm thức… Ông cũng là biên kịch của Chuyện tình bên dòng sông, bộ phim do Lê Khanh đóng vai chính (giành giải Nữ diễn viên xuất sắc tại LHP Việt Nam lần thứ 10 năm 1993).
Trước những tranh cãi về nội dung sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 năm nay, nhà văn đã chia sẻ quan điểm riêng của mình. Chúng tôi xin đăng tải lại bài viết của ông như sau:
“Tôi trân trọng và trao đổi thẳng một số điều về sách giáo khoa tiếng Việt lớp 1 trong bộ sách Cánh diều:
1. Về văn bản:
- 46 bài/82 bài đọc là các văn bản sao phỏng từ các truyện ngụ ngôn nước ngoài, trong đó có 8 bài được tách ra thành 2 phần cho 2 bài, làm lệch lạc về nội dung.
- 2 bài văn vần, trong đó có bài vè nói ngược, kiểu “Chó thì mổ mổ”. Vắng bóng thơ, đồng dao, ca dao…
- Còn lại là các bài văn xuôi tiếng Việt, không có tác giả hoặc loại tác giả “vô danh”, văn vẻ lặp đi lặp lại nhiều câu ngô nghê, nội dung ít tính giáo dục.
Việc lựa chọn văn bản như trên dẫn đến những hạn chế về nội dung và ngôn ngữ diễn đạt của sách, như nhiều người đã chỉ ra.
2. Về nội dung:
- Có gần 50% các bài đọc dựa trên các cốt truyện có nội dung liên quan đến các yếu tố bạo lực, thói xấu, hoặc xa lạ với trẻ (đe doạ, bắt nạt, lừa đảo, lười biếng, sinh đẻ), không có tính giáo dục. Một bộ sách Tiếng Việt 1 không hề có bài nào về xin lỗi, về biết ơn thì nó dạy cái gì cho các cháu?
Video đang HOT
- Các nhân vật chủ yếu trong bài đọc có quan hệ không thân thiện (dê đen – dê trắng, quạ – sẻ, hổ – thỏ, thỏ – rùa, ve – gà, gà nhí – quạ, cò – quạ, chó – quạ, quạ – gà, cua – cò – cá, chuột út – mèo, chuột út – gà trống, chồn – gà rừng, cá măng – cá mập, thợ săn – vượn, lừa – thỏ – cọp v.v), hoặc không có quan hệ gì trong thực tế để liên tưởng (thỏ – cún – vượn)…
- Các hoạt động, cảm xúc chủ yếu của các nhân vật này là: sợ (thống kê sơ bộ ở mấy bài đã khoảng chục lần), lo, ăn thịt, dọa, dữ, dám, giả vờ, la, than, cuỗm, quắp, tợp, tha, la, cắn, mổ, nhá, chộp, tóm cổ, kẹp cổ, nuốt mồi, bắt, chén, hùng hục, phàn nàn,than thở, lầm rầm, van xin, than thở, liếm, la liếm, vùng vằng, lem lẻm, cằn nhằn, gật gù..
3. Về ngôn từ:
- Dùng quá nhiều các từ ngữ phương ngữ, khẩu ngữ, từ ngữ ít dùng: gà nhí, gà nhép, sẻ ri, ca ri ri, pianô, xe téc, nhá cỏ, nhá dưa, quà quà, chả (lo), tí gì, vù, vọt, hí hóp, la liếm, tỏ vẻ, thô lố, ngó, ngộ, nom, ướt nhẹp, dăm (nhà)…
Có gần 50% các bài đọc dựa trên các cốt truyện có nội dung liên quan đến các yếu tố bạo lực, thói xấu, hoặc xa lạ với trẻ (đe doạ, bắt nạt, lừa đảo, lười biếng, sinh đẻ), không có tính giáo dục.
- Dùng nhiều kết hợp bất thường: quạ “quà quà”, sẻ ca ri ri, cho ve tí gì, chả có gì, (đẹp) mà chẳng khôn, giúp má sắp cơm, quạ kiếm cớ la cà, cua khệ nệ ôm yếm, chó thì mổ mổ, gà thì la liếm…
- Dùng nhiều câu quá dài (khỉ đi thăm bà. Khi đi nó hứa sẽ đem về đủ thứ cỏ lạ hoa thơm làm quà cho thỏ và nhím; Cả nhà Nga đi phố, ghé nhà dì, nghe pi a nô. Giá bà ra phố chơi, Bi đỡ nhớ bà, nhớ bố mẹ…) hoặc kiểu câu không thông dụng (quà là rổ khế, rổ mơ, cá rô, cá quả. Cò chả đáp gì).
- Một số mẫu câu lặp lại đơn điệu ở nhiều bài, ví dụ X có Y… (Bề có cá, có cỏ. Hà có ghế gỗ, ba Hà có ghế da. Bờ Hồ có ghế đá. Cỗ có giò, có gà. Hồ có cá mè, ba ba. Nhà có na, nho, khế. Nhà bà có gà, có nghé. Gà có ngô. Nghé có cỏ, có mía. Bi có phở. Bé Li có na. Bố có cà phê…).
4. Kho tàng văn học Việt Nam ở đâu trong bộ sách?
Với con trẻ bước vào lớp 1, ngôn ngữ giao tiếp, học, đọc là một ưu tiên hàng đầu. Ngay từ mẫu giáo, bố mẹ, cô giáo đã phải dạy, uốn nắn, chỉ bày từng từ, từng câu, cách gọi, cách nói, cách xưng hô.
Đến khi vào lớp 1, chữ đầu tiên, câu đầu tiên trong sách cũng phải thế, hết sức cẩn trọng, hết sức sạch sẽ, hết sức trong sáng. Tuổi các cháu là tuổi học theo, nói theo, rất dễ thấm sâu vào tư duy, vào ý nghĩ, vào cảm xúc. Nếu bỏ qua vẻ đẹp của ngôn từ, bỏ qua sự tinh tế của câu chữ, bỏ qua cảm xúc, ngữ điệu văn của từng câu, từng đoạn văn, chỉ chú ý đến thao tác kĩ thuật từ mới, thì chắc chắn không chỉ thất bại mà còn nguy hiểm.
Nhà biên soạn sách không thể máy móc áp từ mới vào bất cứ câu nào, đoạn văn nào, miễn là phù hợp. Hơn thế nữa, những câu, đoạn văn, khúc thơ có sự xuất hiện từ mới phải được lựa chọn vô cùng công phu, bảo đảm những câu văn thật nuột nà, ý tứ thật nhân văn, đoạn văn phải diễn đạt thật trong sáng, thật gần gũi. Gần gũi ở mức mà các cháu đọc lên, ngân lên là thuộc ngay, thích ngay, thuộc và thích đã thì mới bắt đầu bước phân tích từ mới.
Chúng ta dạy chữ, dạy kiến thức cho con trẻ không phải là cách sắp đặt chữ vào đầu, mà đưa chữ, đưa kiến thức vào đầu các con, vào tư duy các con. Muốn thế, “phương tiện” chuyên chở phải thật ngọt ngào, thật lung linh, thật lôi cuốn, để không chỉ các con nhận mặt được từ mới, mà còn là cách để các con bổ sung nhận thức mình về cảm quan, về xúc cảm, làm giàu tâm hồn. Mỗi tiết học như thế nó gần gũi, thương mến, lôi cuốn và sống động, học là nhớ luôn.
Như đã nói, chọn câu, đoạn văn, khổ thơ đưa vào sách nhằm chuyên chở từ mới cho các con là phải hết sức kĩ. Trước khi nghĩ tới từ mới, thì đoạn văn đó, khổ thơ đó phải đẹp, đẹp cả ngôn ngữ, đẹp cả nội dung, đẹp cả đạo đức. Không thể dùng những câu chữ với thứ ngôn ngữ hàng chợ, thứ ngôn ngữ bông phèng, thứ ngôn ngữ bỗ bã để chuyển tải từ mới.
Kho tàng văn hoá dân gian, thơ ca, hò vè, văn học xưa nay ở nước ta tha hồ lựa chọn, và biết bao nhiêu câu, đoạn, khổ thơ hay, hay và trong trẻo, gần gũi, tại sao lại phải lấy từ văn học nước ngoài, tại sao lại phải ” phỏng theo”?
Một nhà biên soạn sách phỏng theo nguyên tác một nhà văn lớn mà dễ thế sao? Văn chương trước khi đưa ý, đưa chuyện, đưa đạo tới người xem là ngôn từ, ngôn từ không hay, ngôn từ khô khốc, vô cảm như người ta đang làm theo cách “phỏng theo” liệu lợi hay hại? Biết chữ nhưng lại biết thêm những ngôn từ xấu, ý tứ xấu thì biết chữ làm gì? Đây là cơ hội cho con trẻ không chỉ học chữ mà còn tiếp nhận văn hoá dân tộc, tại sao không làm?
Vốn chữ, nghĩa của từ Việt phổ thông nó phong phú, nó đủ sức chuyển tải mọi thứ trong câu, trong đoạn văn, khổ thơ, tại sao phải dùng phương ngữ. Tại sao lại phải ép học sinh học phương ngữ khi vốn từ vựng Việt đang rất phong phú và quý giá? Đó sự là sự áp đặt khiên cưỡng, tai hại, cần phê phán và loại bỏ.
Nếu có thời gian, có thể, ở buổi học thêm, ở cuối mỗi tiết học, thầy cô có thể nêu ra cho học sinh tham khảo thêm một số từ ngữ phổ thông nhưng ở các địa phương, vùng miền trong nước lại dùng từ khác để gọi tên, như thế là cách để bổ sung vốn từ cho các con. Chứ dứt khoát không thể dùng phương ngữ thay thế từ phổ thông”.
Khi sách giáo khoa lạm dụng sự vay mượn
Trong khi kho tàng ca dao, dân ca, truyện cổ tích... của Việt Nam vô cùng phong phú, những nhà biên soạn sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 - Cánh Diều lại ôm đồm và lạm dụng truyện ngụ ngôn nước ngoài một cách khó hiểu!
Một trong những lùm xùm của sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 - Cánh Diều đang được dư luận quan tâm suốt những ngày qua, chính là sự lạm dụng đến khó hiểu đối với ngữ liệu vay mượn của nước ngoài.
Một số chuyên gia chỉ ra, có đến 46 bài/82 bài đọc là các văn bản được sao phỏng từ các truyện ngụ ngôn nước ngoài, trong đó, có 8 bài được tách ra thành 2 phần cho 2 bài, làm lệch lạc về nội dung. Còn về nội dung, có gần 50% các bài đọc dựa trên các cốt truyện có nội dung liên quan đến các yếu tố bạo lực, thói xấu, hoặc xa lạ với trẻ (đe doạ, bắt nạt, lừa đảo, lười biếng, sinh đẻ), không có tính giáo dục.
Câu hỏi được nhiều người đặt ra lúc này chính là: "Kho tàng văn học Việt Nam ở đâu trong bộ sách này?".
Chẳng cần vòng vo, hoa mỹ, chúng ta cũng có thể tự hào với kho tàng ca dao, tục ngữ, dân ca... của Việt Nam, vừa đa dạng, phong phú lại vừa gần gũi, dễ hiểu, dễ nhớ. Những kinh nghiệm được ông bà ta đúc kết qua bao đời nay, được gói gọn trong những ngôn từ cô đọng, súc tích. Những bài học về phẩm chất, đạo đức được truyền tải qua những câu chuyện ngắn gọn, mang tính nhân văn... Đó đáng lẽ phải là những bài học đầu tiên cho lứa tuổi bập bẹ "i tờ".
Ấy vậy mà, những vị giáo sư với danh nghĩa là thành viên ban biên soạn sách giáo khoa, đã lôi về hàng loạt những đoạn văn, bài văn, vốn được phỏng dịch, phỏng theo truyện ngụ ngôn của nước ngoài, và nhồi nhét vào phần Tập đọc cho những đứa trẻ lên 6.
Trong khi đó, ngụ ngôn mang tính trí tuệ hàn lâm hơn là tính chất bình dân. Ngụ ngôn thường sử dụng hình tượng loài vật như một ẩn dụ về một triết lý. Hình tượng của ngụ ngôn không là hình tượng trực quan sống động mà là hình tượng của suy tư trừu tượng.
Chính vì lẽ đó, sẽ có loại ngụ ngôn mà trẻ em hiểu được và loại không thể hiểu được. Loại hiểu được là những truyện đơn giản nằm trong tiềm năng và phạm vi trải nghiệm của trẻ. Còn loại không thể hiểu được là những truyện hoàn toàn thuộc trải nghiệm của người lớn khi con người phải đối mặt với những vấn đề gay gắt của cuộc sống. Nếu áp đặt cho trẻ em loại truyện đó, trẻ em không chỉ không hiểu được mà còn dễ gây ra tác động ngược.
Mà khi phỏng dịch theo truyện ngụ ngôn nước ngoài, nhiều từ ngữ cũng không thể tường minh, khiến con trẻ có thể hiểu sai, hiểu lệch lạc ý nghĩa, dẫn đến tính giáo dục của truyện bằng "0" hoặc tệ hơn là gây "tác dụng phụ".
Đó là còn chưa kể, có những truyện ngụ ngôn mà đến người lớn đôi khi còn phải ngây ngô, mãi mới hiểu được, thì những nhà biên soạn tư duy như thế nào mới lạm dụng truyện ngụ ngôn một cách ồ ạt đến vậy?
Họ đòi hỏi gì ở những đứa trẻ 6 tuổi?
Nếu lấy lý do cho những mầm xanh vừa từ mẫu giáo lên được học tích hợp giữa chữ với trải nghiệm cuộc sống thông qua ngụ ngôn, thì cũng phải nhìn nhận rằng, sự tích hợp ấy là vội vàng và hoàn toàn sai lầm.
Cả một kho tàng văn học dân gian Việt Nam như chợt bay biến đi đâu mất, mới khiến các tác giả phải vã mồ hôi, suy tính đủ đường, mà chêm xen tối đa những ngữ liệu "nhập khẩu", mà chính xác hơn, lại chỉ là những dòng được "phỏng theo" với cách kể của một người kể chuyện nào đó. Chính vì tư duy sai lầm đó mà những mẩu truyện chiếm sóng gần hết quyển sách giáo khoa Tiếng Việt 1 chỉ mang nội dung vừa xa xôi mà cũng thật nửa vời...
Trong khi chúng ta đang tìm cách để lưu giữ những giá trị dân tộc, những di sản văn hóa, vậy tại sao trong sách giáo khoa Tiếng Việt 1 lại không tận dụng điều đó, để lãng phí cơ hội trao truyền bản sắc đến thế hệ tương lai?
Có một số ý kiến muốn "bênh vực" sách giáo khoa theo chương tình mới, rằng chương trình cách đây vài chục năm đã không còn phù hợp với thời đại, rằng những hình ảnh, vần thơ trong sách cũ thường gắn với làng quê dung dị, còn thời nay, cần có thêm hơi thở của đô thị cho phù hợp với thực tiễn và gần gũi hơn với học trò...
Tôi cũng đồng tình, không phải cứ "đóng đinh" hình ảnh "cây đa", "giếng nước", "bờ đê",... phải lựa chọn những hình ảnh gần gũi với cuộc sống, xoay quanh cuộc sống của đứa trẻ thì mới trở thành một nội dung dễ đọc, dễ hiểu và dễ nhớ. Tuy nhiên, đó cũng không phải là những mẩu truyện ngụ ngôn được "biến thể" sau khi cắt gọt, chắp vá với hai chữ "phỏng theo" thật tùy tiện.
Lạm dụng vay mượn khiến chúng ta sẽ tự đánh mất chính mình. Sách Tiếng Việt nhưng dường như không giống dạy Tiếng Việt!
Không thiếu những tác phẩm văn học, những mẩu truyện từ cổ chí kim tại Việt Nam mang ý nghĩa giáo dục, cũng không phải không thể sử dụng những đoạn văn hiện đại, chia sẻ những kỹ năng cần thiết, những cử chỉ gần gũi nhất với cuộc sống của trẻ thơ. Có khó gì để đưa vào sách "vỡ lòng" những bài Tập đọc mà thông qua đó, có thể dạy lời "cảm ơn" hay "xin lỗi"?
Đó mới là những điều mà đứa trẻ lên 6 thực sự cần!
*Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả!
Không chỉ cần sách tốt Sách giáo khoa (SGK) lớp 1 theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018 được đưa vào dạy học hơn một tháng qua. Đa số giáo viên đánh giá cao những ưu điểm của SGK mới như thiết kế, trình bày hấp dẫn, nội dung có sự tích hợp và phân hóa, dẫn dắt học sinh khám phá. Ảnh minh họa Bên cạnh...