Nghìn tỷ đào tạo tiến sĩ ở nước ngoài: Cách hay hơn…
Theo GS.TSKH Trần Duy Quý, để tiết kiệm chi phí cho Nhà nước lại tránh chảy máu chất xám, nên mời chuyên gia nước ngoài giảng dạy ở Việt Nam.
Theo dự thảo thông tư hướng dẫn cơ chế tài chính thực hiện Đề án 89 do Bộ Tài chính mới công bố, mức học phí tối đa được cấp cho giảng viên làm nghiên cứu sinh tiến sĩ là 25.000 USD/năm. Mức chi sinh hoạt phí từ 390 USD – 1.300 USD/tháng.
Các khoản hỗ trợ bao gồm: học phí, sinh hoạt phí, vé máy bay, bảo hiểm y tế bắt buộc (với ứng viên làm nghiên cứu sinh ở nước ngoài); học phí, hỗ trợ tham dự hội nghị, hội thảo, hỗ trợ công bố quốc tế… (với giảng viên làm nghiên cứu sinh toàn thời gian trong nước)…
Ngân sách nhà nước sẽ hỗ trợ cấp cho người học trong thời hạn theo quyết định phê duyệt của Bộ trưởng GD-ĐT, tối đa không quá 4 năm (48 tháng) đối với người học tiến sĩ và không quá 2 năm (24 tháng) đối với người học thạc sĩ. Trong thời gian tạm dừng học tập, nghiên cứu, người học không được nhận kinh phí hỗ trợ.
Từ thực tế nhiều chương trình đưa người đi đào tạo ở nước ngoài rồi không ít người ở lại, không trở về, GS.TSKH Trần Duy Quý, nguyên Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp, cho rằng quan điểm cứ đào tạo, dù người Việt ở lại làm việc cho nước ngoài thì vẫn là đóng góp cho đất nước, là chưa đúng. Việt Nam còn nghèo, trong khi đó, trước khi ra nước ngoài người học thường phải làm cam kết sẽ phải bồi hoàn kinh phí cho Nhà nước nếu không trở về nhưng thực tế lại không được như vậy. Rất nhiều trường hợp không trở về cũng không hoàn thành được yêu cầu bồi hoàn kinh phí cho Nhà nước. Kết quả là ngân sách nhà nước tốn kém, lại bị chảy máu chất xám.
Bởi vậy, theo GS Quý, tốt nhất là Nhà nước nên hỗ trợ đào tạo trình độ cao ngay trong nước, mời các chuyên gia nước ngoài giỏi dạy một lúc nhiều người.
Trước đây, khi còn là Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp, GS.TSKH Trần Duy Quý cũng đã mời các chuyên gia Úc, Anh sang giảng tại Việt Nam. Chỉ cần lo vé máy bay và tiền lương cho chuyên gia nước ngoài, chi phí rẻ hơn nhiều, lại đào tạo được nhiều người. Mỗi năm chuyên gia sang 2 đợt, mỗi đợt khoảng 2-3 tháng, cần thiết thì mới cử người ra nước ngoài thực tập ngắn hạn.
Có nhiều cách để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho Việt Nam. Ảnh minh họa
“Cách đào tạo này rất hiệu quả. Viện Di truyền Nông nghiệp mời nhiều chuyên gia nước ngoài sang giảng, từ tiếng Anh đến chuyên môn.
Đầu tiên, chúng tôi mời một giáo sư là chuyên gia tình nguyện tại Volunteer. Vị chuyên gia nói rằng ông không cần nhiều lương, chỉ xin bằng viện trưởng, mà khi ấy, lương của tôi chỉ có 60 USD. Khi vị giáo sư sang Việt Nam, tôi cho ông xem bảng lương và ông… đành chịu. Sau này, thấy ông kham khổ quá, Viện tăng lương cho ông lên 600 USD, gấp 10 lần lương viện trưởng nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với thu nhập của ông trước đây, vị chuyên gia vẫn chấp nhận.
Ông mua một chiếc xe đạp, ngày ngày đạp đến Viện giảng dạy cho 70-80 cán bộ. Khi thi TOEFL học bổng của nước ngoài, nhiều cán bộ đã đỗ.
Video đang HOT
Vị giáo sư ấy quan hệ rộng, lại giúp Viện Di truyền nông nghiệp gửi thư làm quen đến các phòng thí nghiệm, giới thiệu nhiều nhà khoa học nổi tiếng của thế giới. Cách làm ấy tương tự như cách mà vợ chồng GS Trần Thanh Vân đã làm”, GS.TSKH Trần Duy Quý kể lại.
Ông cho biết thêm, vợ chồng GS Trần Thanh Vân – Lê Kim Ngọc là hình ảnh đẹp của những Việt kiều yêu nước, hết lòng vì sự phát triển khoa học của nước nhà. Từ Pháp trở về Việt Nam, GS Trần Thanh Vân sáng lập ra Hội Khoa học gặp gỡ Việt Nam (GGVN) tổ chức rất nhiều chuỗi hội nghị khoa học “Gặp gỡ Việt Nam”, thu hút hàng nghìn nhà khoa học danh tiếng trên thế giới đến Việt Nam tham dự và giảng dạy. Sau đó, Hội thành lập Trung tâm quốc tế khoa học giáo dục liên ngành (ICISE) ở thành phố Quy Nhơn, Bình Định). ICISE đã tổ chức các hội nghị khoa học quốc tế đỉnh cao, trường hè khoa học chuyên đề, thu hút sự tham gia của hàng nghìn nhà khoa học quốc tế, trong đó có các nhà khoa học đoạt giải Nobel, nhà khoa học đoạt giải Fields… đến giảng dạy.
“Có rất nhiều cách để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho Việt Nam. Thay vì đổ hàng nghìn tỷ đưa người ra nước ngoài đào tạo để rồi sau khi thành tài, không ít người trong số đó không trở về, Việt Nam vừa mất tiền, vừa chảy máu chất xám, thì nên đầu tư, mời chuyên gia nước ngoài sang Việt Nam đào tạo”, GS Quý một lần nữa nhấn mạnh.
Ông cho biết, trước Đề án 89, Việt Nam cũng đã có những đề án nghìn tỷ tương tự nhằm đào tạo tiến sĩ cho các cơ sở giáo dục đại học song không thể hoàn thành được mục tiêu. Trong đó, phải kể đến Đề án 322 Đào tạo cán bộ khoa học, kỹ thuật tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước.
Đề án này được Chính phủ phê duyệt năm 2000, dự kiến diễn ra trong 5 năm (2000-2005) nhưng sau đó kéo dài 10 năm. Mục tiêu của đề án là đào tạo, bồi dưỡng cán bộ khoa học, kỹ thuật trình độ tiến sĩ, thạc sĩ, đại học tại các cơ sở đào tạo, nghiên cứu nước ngoài hoặc phối hợp với nước ngoài, nhằm đáp ứng yêu cầu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Theo báo cáo của Bộ GD-ĐT, có 4.500 người được gửi đi học đại học và sau đại học tại 832 cơ sở đào tạo của 34 nước. Trong số đó có 49,41% được đào tạo tiến sĩ; 25,75% đào tạo thạc sĩ; 24,84% đào tạo thực tập sinh và đại học.
Tổng kinh phí được cấp cho đề án này là trên 2.500 tỷ đồng, tính theo tỷ giá từng giai đoạn được cấp, tương đương với 152 triệu USD, trung bình chi khoảng 33.000/USD/du học sinh. Đề án cũng đưa ra quy định, người trúng tuyển phải cam kết hoàn thành chương trình đào tạo, nếu không trở về nước phục vụ phải bồi hoàn toàn bộ chi phí.
Thế nhưng mục tiêu cũng như kỳ vọng đặt ra cho Đề án 322 lại không đạt kết quả như mong muốn. Nhiều người được cử đi đào tạo không về nước hoặc nếu có về nước lại không làm việc tại đơn vị gửi mình đi học. Theo con số báo cáo của Cục Đào tạo với nước ngoài của Bộ GD-ĐT, có 2.268 du học sinh được đưa đi đào tạo tiến sĩ, về nước chỉ có 1.074 tiến sĩ.
Riêng Viện Di truyền Nông nghiệp của GS Quý có 3 người đi học theo Đề án 322 thì 2 người trở về, còn 1 người không về.
Từ bài học của Đề án 322, GS.TSKH Trần Duy Quý một lần nữa đề nghị Việt Nam nên mời các chuyên gia giỏi, đặc biệt có rất nhiều nhà khoa học Việt kiều tài năng, Việt Nam nên mời họ về làm việc, đồng thời qua đó kết nối với các chuyên gia giỏi của nước ngoài.
Về hình thức đào tạo, nguyên Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp cho biết có rất nhiều cách: mời chuyên gia nước ngoài sang Việt Nam, hoặc giảng dạy trực tuyến. Cần thiết, Bộ GD-ĐT làm đề án dạy trực tuyến cho trình độ cao bằng ngoại ngữ như tiếng Anh, yêu cầu đối với người học là phải nói tốt, nghe tốt.
Cùng với đó, theo vị chuyên gia, cần hỗ trợ kinh phí cho sinh viên giỏi, nghiên cứu sinh làm đề tài trong nước theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp. Việt Nam có thể nhờ chuyên gia nước ngoài phối hợp với sinh viên, nghiên cứu sinh để giải quyết những vấn đề thực tiễn sản xuất Việt Nam đang vướng mắc. Ví dụ, trong nông nghiệp là vấn đề chế biến sâu lương thực, thực phẩm…
“Tính sơ sơ, Nhà nước hỗ trợ mỗi nghiên cứu sinh học nước ngoài hơn 3,5 tỷ đồng mỗi năm học, 4 năm là 14 tỷ đồng. Số tiền này có thể dùng để mời một chuyên gia giỏi, đào tạo hàng chục tiến sĩ trong nước trình độ cao, cần thiết thì cho ra nước ngoài thực tập ngắn hạn 1, 2 tháng để giải quyết những khúc mắc mà thí nghiệm trong nước không đủ máy móc”, GS.TSKH Trần Duy Quý đề xuất.
Có thật dễ trở thành Tiến sĩ tại Việt Nam hơn?
Đánh giá những đổi mới trong quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ là tích cực, GS.TSKH Trần Duy Quý cũng lưu ý không nên quá máy móc.
Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa ban hành Thông tư 18/2021/TT-BGDĐT về Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ thay thế Thông tư 08/2017/TT-BGDĐT. Đi kèm với Thông tư 18 là Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ.
So với Thông tư 08/2017, Thông tư 18/2021 có nhiều điểm thay đổi như bổ sung việc chấp nhận các sách chuyên khảo, các công bố tại các tạp chí trong nước có chất lượng tốt; bổ sung minh chứng về trình độ ngoại ngữ; điều chỉnh tăng số lượng nghiên cứu sinh được hướng dẫn trong cùng một thời gian cụ thể; thay đổi mốc thời gian đào tạo, thay đổi quy trình phản biện...
Trao đổi với Đất Việt, GS.TSKH Trần Duy Quý, nguyên Ủy viên Hội đồng chức danh Giáo sư liên ngành Nông nghiệp-Lâm nghiệp, nguyên Viện trưởng Viện Di truyền nông nghiệp đánh giá, những thay đổi trong Thông tư 18 là tích cực và ngày càng khó hơn, đặc biệt bắt buộc nghiên cứu sinh phải có trình độ ngoại ngữ để tham khảo tài liệu, tiếp cận với tri thức thế giới, đồng thời có thể giải thích, thuyết trình quốc tế...
GS Quý đặc biệt lưu ý đến thay đổi liên quan đến bài báo quốc tế. Trước hết, theo quy chế mới, các bài báo, báo cáo khoa học xuất bản trong danh mục WoS/Scopus vẫn là yêu cầu để minh chứng cho kinh nghiệm và kết quả nghiên cứu khoa học của nghiên cứu sinh.
WoS (Web of Science) là cơ sở dữ liệu trích dẫn các tạp chí khoa học thế giới được tuyển chọn và quản lý bởi Clarivate Analytics (Mỹ). Nguyên CSDL này được sáng lập năm 1956 bởi Viện Thông tin Khoa học (Institute of Scientific Information), nên một thời gian dài được biết dưới tên gọi là ISI.
Trước đây, quy chế cũ yêu cầu nghiên cứu sinh cần công bố tối thiểu 02 bài báo về kết quả nghiên cứu của luận án trong đó có 01 bài đăng trên tạp chí khoa học thuộc danh mục các tạp chí ISI-Scopus hoặc đã công bố tối thiểu 02 báo cáo bằng tiếng nước ngoài trong kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện hoặc 02 bài báo đăng trên tạp chí khoa học nước ngoài có phản biện.
Những thay đổi trong quy chế đào tạo tiến sĩ được đánh giá là tích cực
Theo GS Quý, danh mục ISI và Scopus khác nhau. Một tạp chí khoa học có thể vừa thuộc danh mục Scopus, vừa thuộc danh mục WoS, tuy nhiên danh mục của ISI có sự chọn lọc hơn, còn danh mục Scopus vẫn có một số tạp chí đáng ngờ.
Tùy theo uy tín của từng loại tạp chí mà điểm số dành cho bài báo khoa học đăng trên đó khác nhau. Chẳng hạn, một bài báo được đăng trên tạp chí Nature của Mỹ có thể được tới 25-30 điểm và người nào đăng được một bài trên tạp chí này chắc chắn bảo vệ được TSKH.
Bên cạnh đó, tùy từng tạp chí mà người đăng vừa phải xếp hàng vừa phải mất tiền để được đăng bài, hoặc được trả tiền nếu có bài đăng. Chẳng hạn, khi gửi bài đăng trên tạp chí Công nghệ sinh học của Anh, người viết có thể được trả 500 bảng Anh. Đó thường là bài được tạp chí đặt, nêu tổng quan tình hình và xu hướng phát triển, xu hướng, nhận định, đánh giá... không phải đăng công trình khoa học.
Thay đổi của quy chế mới được GS Quý đánh giá cao là quy chế mới đã bổ sung việc chấp nhận các sách chuyên khảo, các công bố tại các tạp chí trong nước có chất lượng tốt theo khung tiêu chuẩn đánh giá của Hội đồng Giáo sư Nhà nước (0,75 điểm trở lên). Cách tính điểm sẽ căn cứ khung điểm tối đa của Hội đồng Giáo sư Nhà nước quy định, với tổng điểm đối với người đủ điều kiện hướng dẫn nghiên cứu sinh là 4,0 và đối với đầu ra của nghiên cứu sinh là 2,0.
"Rõ ràng, Việt Nam đã rút kinh nghiệm, điều kiện ngày càng khó hơn. Song cũng có một thực tế là, nếu đạt được tiêu chuẩn như vậy, trình độ ngoại ngữ tốt thì hầu hết người làm khoa học sẽ ra nước ngoài, vì ở nước ngoài có điều kiện tốt hơn, họ được phát huy sở trường, năng lực của mình, được học bổng cao.
Tất nhiên, việc này cũng tùy trường hợp cụ thể mà linh hoạt. Chẳng hạn, đối với những ngành chuyên sâu, chỉ có Việt Nam làm sâu thì nên ưu tiên thực hiện trong nước. Ngành lúa là một ví dụ, ai hiểu về lúa sâu như người Việt Nam?", GS.TSKH Trần Duy Quý nói.
Ông cũng lưu ý đến tính hai mặt của các bài báo quốc tế. Theo đó, muốn đăng bài báo ở nước ngoài, họ truy đến tận cùng, cặn kẽ, khó mà giấu được những bí quyết. Như phát hiện những đột biến trong lúa lai, tạo ra những dòng khác, nếu bài báo quốc tế mô tả hết, nước ngoài bắt chước thì Việt Nam bị... hớ.
Tương tự, có những bí mật liên quan đến công nghệ, không thể đăng tải hết trên tạp chí quốc tế, như công nghệ nuôi tôm vừa được cải tiến, tăng khả năng cạnh tranh với nước khác thì chúng lại được đăng tải trên tạp chí quốc tế. Những nước đang cạnh tranh với Việt Nam có điều kiện ứng dụng nhanh hơn nhiều lập tức sử dụng những thông tin này để làm lợi cho họ, phía Việt Nam lại chịu thiệt.
Ông dẫn thêm ví dụ, để hạn chế việc ăn cắp công nghệ, trước đây, ở những lĩnh vực sâu, công nghệ, mang tính bí quyết, các công bố ở Trung Quốc chủ yếu đăng bằng tiếng Trung, còn Nhật đăng chủ yếu bằng tiếng Nhật.
Cho nên, việc đăng bài trên tạp chí trong nước có chất lượng tốt, theo GS Quý, còn giúp cho việc tiếp cận của nước ngoài với những bí quyết, bí mật quốc gia khó hơn.
Bên cạnh đó, ông cũng lưu ý, trong quốc phòng, công nghệ thông tin mới nếu cứ dựa nguyên si theo những gì bài báo quốc tế đăng để làm theo thì rất khó thành công, mà đòi hỏi phải "xê dịch", nghiên cứu xung quanh công thức bài báo đưa ra, làm thử nhiều lần.
"Cho nên, không thể máy móc mà phải nhạy bén trong từng lĩnh vực cụ thể, phù hợp với thời đại.
Thay đổi của Bộ GD-ĐT cũng sẽ xóa bỏ được nạn thuê viết bài báo quốc tế, những bài báo lá cải đăng ở tạp chí quốc tế. Thực tế cho thấy, nhiều người phải đóng 300-400 USD, thậm chí cả nghìn USD để được đăng bài trên tạp chí quốc tế. Đôi lúc, bài báo quốc tế viết bằng tiếng Việt, sau đó được thuê dịch ra tiếng nước ngoài, cách làm ấy chỉ là đối phó", GS Quý nhận xét.
Bên cạnh những thay đổi như trong quy chế mới, để thực chất hơn, GS.TSKH Trần Duy Quý đề nghị Bộ GD-ĐT cần thêm cả những nghiên cứu mang tính ứng dụng, tức nghiên cứu sinh phải có được những ứng dụng trong doanh nghiệp hay trong thực tiễn, từ đó đánh giá điểm ứng dụng ngang bằng với những bài báo xuất sắc trên các tạp chí lớn.
Ví dụ, trong tạo giống, việc đăng cả chục bài báo quốc tế nhưng không ra được giống nào để người dân hay doanh nghiệp dùng thì không có ý nghĩa gì. Trong khi đó, có người chỉ cần đăng 2 bài nhưng được 2 giống và đem ứng dụng rộng rãi thì tốt hơn nhiều.
Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ: Thúc đẩy khoa học phát triển Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ mới được ban hành có nhiều điều chỉnh khoa học, khách quan và công bằng, phù hợp với thực tế. Quy chế tuyển sinh, đào tạo trình độ tiến sĩ tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục đại học. Ảnh minh hoạ: Internet Công bằng, phù...