Nâng cao chất lượng giáo dục đại học: Quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống cơ sở đào tạo
Xây dựng mạng lưới cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) phù hợp về số lượng, bảo đảm chất lượng là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện của ngành giáo dục.
Tuy nhiên, thời gian qua, việc quy hoạch, sắp xếp các cơ sở GDĐH vẫn còn nhiều bất cập, ảnh hưởng không nhỏ đến công tác nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực.
Hoạt động nghiên cứu của sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh: TUẤN DIỆP
Chất lượng chưa tương xứng quy mô
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD và ĐT), hệ thống các cơ sở GDĐH đóng góp chính cho việc đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao trong phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, hiện nay, cách đào tạo của hệ thống GDĐH ở nước ta chưa bám sát, chưa theo kịp sự thay đổi mạnh mẽ về nhu cầu, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo của thị trường lao động. Việc đầu tư các điều kiện bảo đảm chất lượng chưa tương xứng với sự gia tăng về số lượng cũng như quy mô đào tạo. Cách tiếp cận trong xây dựng và quản lý hệ thống các cơ sở GDĐH còn dựa nhiều vào chỉ tiêu số lượng mà chưa tập trung nhiều vào bảo đảm chất lượng, nhất là thiếu dự báo nhu cầu nhân lực.
Phân tích cụ thể từ các mục tiêu, thạc sĩ Nguyễn Thị Ngọc, Phân viện Học viện Hành chính quốc gia khu vực Tây Nguyên cho rằng, số lượng cơ sở GDĐH ở nước ta khá lớn, tổ chức cồng kềnh. Hiện nay, cả nước có hơn 236 cơ sở GDĐH, đã vượt so với mục tiêu đề ra trong Quyết định số 37/2013/QĐ-TTg về điều chỉnh quy hoạch mạng lưới các trường ĐH, cao đẳng. Ngoài ra, mục tiêu quy mô đào tạo ĐH, cao đẳng đến năm 2020 là 2,2 triệu sinh viên thì đến năm 2018, riêng đào tạo đại học đã là hơn 1,7 triệu sinh viên, chưa kể một số lượng lớn sinh viên cao đẳng trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp. Thạc sĩ Tống Thị Hạnh, Trường đại học Sài Gòn cho rằng, quy mô GDĐH phát triển ngày càng nhanh nhưng phân bố chưa cân đối. Các cơ sở GDĐH lớn và uy tín cũng như đội ngũ giảng viên có trình độ, học hàm, học vị chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội và TP Hồ Chí Minh; nhiều cơ sở giáo dục đại học ở một số địa phương không có giáo sư, phó giáo sư đầu ngành. Tỷ lệ sinh viên/giảng viên ở một số vùng tập trung đông các cơ sở GDĐH như đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ còn cao, tạo sức ép cho giảng viên phải dạy quá nhiều giờ, dạy nhiều sinh viên trong một lớp, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giảng dạy; giảng viên sẽ không có thời gian để bồi dưỡng chuyên môn, kỹ năng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và nghiên cứu khoa học.
TS Nguyễn Bá Cần, nguyên Phó Cục trưởng Cơ sở vật chất thiết bị đồ chơi trẻ em (Bộ Giáo dục và Đào tạo) cho rằng, trong 25 năm qua việc quy hoạch mạng lưới cơ sở GDĐH đã tập trung giải quyết được một số nhiệm vụ trọng yếu có tính chiến lược và dài hạn. Tuy nhiên, so với nhu cầu phát triển thì hoạt động đào tạo tinh hoa và nghiên cứu khoa học của các cơ sở GDĐH tốp trên chưa thể hiện vai trò đầu tàu. Trong xây dựng hệ thống các cơ sở GDĐH còn thiếu các văn bản quy phạm pháp luật, những văn bản có thì còn nhiều lỗ hổng hoặc chưa hợp lý do thiếu tính thực tiễn, bị điều chỉnh thường xuyên, thiếu nhất quán.
Xây dựng lại mạng lưới
GDĐH được coi là bậc học sau cùng, có đủ khả năng đào tạo đội ngũ nhân lực đáp ứng nhu cầu cho mọi lĩnh vực phát triển kinh tế – xã hội. Việc quy hoạch, sắp xếp lại mạng lưới sẽ góp phần tạo bình đẳng về cơ hội tiếp cận GDĐH cho mọi người; tạo môi trường đào tạo mở, hỗ trợ các cá nhân học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Việc quy hoạch, sắp xếp hợp lý cơ sở GDĐH cũng sẽ góp phần tiết kiệm chi phí ngân sách, tích tụ nguồn lực, tăng đầu tư cho giáo dục, giúp đưa GDĐH nước ta sớm tiệm cận trình độ của thế giới, phát triển lành mạnh, hiệu quả.
Để khắc phục bất cập về mạng lưới cơ sở GDĐH, Bộ GD và ĐT cho biết, đang xây dựng hai đề án: “Sắp xếp, tổ chức lại các trường sư phạm, thành lập một số trường sư phạm trọng điểm” và “Sáp nhập, hợp nhất hoặc giải thể các trường đại học công lập” trình Thủ tướng Chính phủ để làm cơ sở quy hoạch mạng lưới cơ sở GDĐH. Theo Thứ trưởng GD và ĐT Nguyễn Hữu Độ, ngành giáo dục sẽ triển khai trên diện rộng việc đánh giá chất lượng các cơ sở GDĐH làm cơ sở để phân hạng, xây dựng và triển khai quy hoạch lại nhằm bảo đảm chất lượng toàn bộ hệ thống GDĐH trong giai đoạn 2021 – 2030. Tăng cường dự báo nhu cầu nhân lực, khảo sát nhu cầu xã hội trong từng giai đoạn để xây dựng phương án tuyển sinh và đào tạo hợp lý, tránh tình trạng thiếu nhân lực cục bộ. Đáng chú ý, ngành giáo dục sẽ hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu ĐH làm căn cứ xây dựng chính sách phù hợp nhu cầu đào tạo nhân lực trình độ cao ở từng giai đoạn phát triển kinh tế – xã hội cụ thể.
Theo thạc sĩ Nguyễn Thị Ngọc, cần có những nghiên cứu và kế hoạch tổng thể, dài hạn về phát triển GDĐH, làm cơ sở để tổ chức, sắp xếp lại. Trong đó, việc đầu tiên là cần nghiên cứu, dự báo được nhu cầu nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao trong 5 năm đến 10 năm tới, từ đó tính toán các chuyên ngành đào tạo chủ yếu, thứ yếu… cho phù hợp. Ngoài ra, cần sáp nhập, hợp nhất các trường đại học nhằm tạo ra các trường ĐH lớn, trọng điểm, đa ngành có khả năng hoạt động hiệu quả; tính toán lại số lượng cơ sở GDĐH ở mỗi lĩnh vực, mỗi địa phương theo nhu cầu nhân lực hiện tại và tương lai. Thạc sĩ Tống Thị Hạnh cho rằng, cần xây dựng cơ sở GDĐH theo hướng chuẩn hóa, đa dạng hóa. Trong đó, Nhà nước cần quy hoạch lại quỹ đất để xây mới hoặc mở rộng diện tích cho các cơ sở GDĐH đạt tiêu chuẩn; ưu tiên quỹ đất để xây dựng một số khu đại học tập trung. Mỗi trường ĐH cần có sự đầu tư lâu dài cho thương hiệu riêng dựa trên nền tảng là những giá trị bền vững mang bản sắc riêng, văn hóa riêng của trường mình…
MẠNH XUÂN VÀ GIANG SƠN
Theo nhandan
Video đang HOT
Sắp xếp lại các trường đại học: Giải thể, sáp nhập nhiều trường đại học kém chất lượng
Thời gian tới sẽ có đề án về sáp nhập, hợp nhất, giải thể một số cơ sở giáo dục đại học công lập hoạt động kém hiệu quả.
Đó là một trong những nội dung của đề tài khoa học công nghệ cấp quốc gia: "Cơ sở khoa học của quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam" do PGS.TS Hoàng Minh Sơn, Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội làm chủ nhiệm.
PGS.TS Hoàng Minh Sơn
Nhiều lựa chọn trước khi giải thể trường
Thưa PGS, đ ề tài nghiên cứu "Cơ sở khoa học của quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam" đã được ông và nhóm nghiên cứu thực hiện như thế nào?
Chúng tôi đã thu thập những dữ liệu quan trọng về nhiều mặt hoạt động của hơn 217/235 trường, kể cả tư thục, từ đó có thể đưa ra nhiều nhận định về bức tranh chung về giáo dục đại học Việt Nam hiện nay.
Phần lớn các cơ sở giáo dục đại học đã có những nỗ lực đổi mới mạnh mẽ và đạt được những bước tiến tích cực trong thời gian qua, đặc biệt có một số cơ sở có bứt phá trong các xếp hạng quốc tế.
Trong khi đó khá nhiều trường thiếu thốn cả về cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên, các chỉ số đo lường cho thấy chất lượng và hiệu quả hoạt động kém.
Số lượng trường ở Việt Nam có thể nói là chưa lớn so với số dân, nhưng trong đó khá nhiều trường có quy mô nhỏ (dưới 5 nghìn sinh viên) hoặc rất nhỏ (dưới 2 nghìn sinh viên) hoạt động không hiệu quả.
Đây là hệ quả của giai đoạn số lượng trường tăng nhanh trong khi nguồn lực (cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên) không tăng kịp. Nhiều trường ở vào thế "bất lợi" do chỉ đào tạo đơn lĩnh vực, không có được sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các ngành để phát triển bền vững như ở các trường đa lĩnh vực.
Cũng dựa trên những dữ liệu thu thập được, nghiên cứu đã đề xuất bộ tiêu chí phân loại, đánh giá chất lượng, hiệu quả các trường từ các góc độ: Điều kiện đảm bảo chất lượng (bao gồm cơ sở vật chất, tài chính và con người); Chất lượng, hiệu quả đào tạo; Nghiên cứu; Hợp tác kết nối cộng đồng (bao gồm đóng góp cho xã hội, hợp tác quốc tế ); Năng lực quản trị. Theo đó, các trường được phân thành 4 mức: Không đạt; đạt tối thiểu; đạt khá; đạt cao.
Nghiên cứu đề xuất, các trường không đạt chuẩn tối thiểu sẽ cùng cơ quan chủ quản xây dựng đề án và chọn phương án sắp xếp, tái cấu trúc và cải thiện hoạt động, chứ không phải hễ không đạt thì sáp nhập hay giải thể ngay.
Họ có thể lựa chọn đưa ra các cam kết cùng mục tiêu, giải pháp cụ thể trong đề án của mình, chẳng hạn, bằng cách nào cải thiện được các chỉ số về chất lượng, hiệu quả trong 2-3 năm nữa.
Ngoài ra, các trường cũng có thể đề xuất sáp nhập với một cơ sở mạnh hơn để được hỗ trợ về đội ngũ giảng viên, tài chính, năng lực quản trị và cả thương hiệu, trên cơ sở hai bên cùng có lợi; hoặc một - hai hay nhiều trường hợp nhất thành một trường mới mạnh hơn, lớn hơn, cũng trên cơ sở tận dụng thế mạnh của nhau để khai thác hiệu quả tối đa nguồn lực.
Cuối cùng, các trường có thể lựa chọn phương án giải thể hoặc chuyển đổi thành một cơ sở giáo dục khác, dạy nghề hoặc giáo dục thường xuyên...
Không thể áp đặt cứng nhắc từ trên xuống
Việc quy hoạch, sắp xếp hệ thống giáo dục đại học không phải bây giờ mới được đặt ra, song vẫn được coi là vấn đề "nhạy cảm", thậm chí khó thực hiện. Ông và nhóm nghiên cứu có "lo lắng sẽ tạo sóng dư luận" khi công bố đề tài này?
Cần nhấn mạnh lại, việc hợp nhất, sáp nhập, giải thể, quy hoạch nhằm mục đích cuối cùng là nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ sở giáo dục đại học, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của toàn hệ thống, không phải mục đích là giảm về số lượng.
Khi thực hiện đề tài nghiên cứu, tôi đã trao đổi với nhiều cơ sở giáo dục đại học thì các trường đều đồng thuận hướng đi như vậy. Bản thân các trường, kể cả trường không mạnh cũng nhận thức rõ và coi sắp xếp, hợp nhất, giải thể là quá trình tất yếu.
Thậm chí một số trường đã đi trước, đã hình thành nhóm trường, có liên minh bước đầu. Trong hệ thống năng động này, đặc biệt khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học được ban hành, các trường không khoanh tay chờ, không ngồi yên. Họ chỉ mong chờ nhà nước có chính sách để có thể thực hiện điều đó thuận lợi hơn, tốt hơn.
Chính sách nhà nước bên cạnh tạo cơ sở pháp lý cho các trường thực hiện, nên cho họ phương án để lựa chọn. Ví dụ, trường đang hoạt động kém hiệu quả có thể có thời gian 3 năm để cải tiến chất lượng chẳng hạn, hoặc lựa chọn hợp nhất, liên kết với một trường nào đó...
Nhà trường phải xây dựng đề án và đề án đó được Chính phủ thẩm định, phù hợp với đề án chung. Chỉ khi không thể có phương án nào tốt hơn mới tính đến việc giải thể - đây là giải pháp cuối cùng.
Các trường cũng mong chờ hỗ trợ về tài chính, vì quá trình tái cấu trúc là quá trình rất cần sự hỗ trợ về tài chính để sắp xếp lại đội ngũ, cơ sở vật chất.
Chúng tôi nghiên cứu kinh nghiệm Trung Quốc, Malaysia, Hàn Quốc, Mỹ, Bắc Âu, Nam Phi để cho thấy, việc sắp xếp thường không thành công khi tiến hành theo cách áp đặt cứng nhắc từ trên xuống.
Bởi vậy, nghiên cứu muốn giới thiệu những phương pháp sắp xếp mang tính dân chủ, tự nguyện, đồng thuận tương đối giữa trên và dưới, để các trường phát huy sự chủ động xây dựng đề án, để chính những con người ở cơ sở giáo dục đó có cơ hội phát triển tốt hơn.
Cần một chủ trương quyết liệt
Liệu rằng , kết quả đề tài nghiên cứu có đóng góp được nhiều cho xây dựng chính sách như mong muốn , thưa ông ?
Các nhà khoa học luôn mong muốn đề tài của mình được ứng dụng càng nhiều càng tốt. Nhưng điều này phụ thuộc trước hết vào chất lượng kết quả nghiên cứu; sau đó là khả năng thuyết phục, cách viết báo cáo ra sao, nghiên cứu và công bố kết quả nghiên cứu thế nào, cách truyền đạt thông tin kết quả nghiên cứu để thuyết phục các nhà làm chính sách và tạo sự đồng thuận của xã hội.
Thời gian tới sẽ có đề án về sáp nhập, hợp nhất, giải thể một số cơ sở giáo dục đại học công lập hoạt động kém hiệu quả. Hy vọng quá trình đóng góp luận cứ của nhóm nghiên cứu, cách tiếp cận, phương án thực hiện với tiêu chuẩn tiêu chí sẽ tạo đồng thuận trong xã hội.
Tôi muốn nói thêm, việc sắp xếp lại không giải quyết tất cả các bất cập của nền giáo dục đại học nhưng góp giải pháp về mặt cấu trúc để nâng cao hiệu quả hoạt động của từng trường và của toàn hệ thống, hiệu quả đầu tư của Nhà nước và của xã hội.
Thông qua sắp xếp lại, Nhà nước sẽ thấy rõ hơn nên đầu tư vào đâu, các trường cũng xác định được hướng phấn đấu nếu muốn nhận hỗ trợ từ ngân sách và thu hút người học, thu hút các nguồn đầu tư từ xã hội.
Để một đề tài nghiên cứu khoa học thành công và đóng góp vào thực tiễn, theo ông cần những yếu tố gì?
Thành công trước hết phụ thuộc vào ý chí của lãnh đạo cao nhất, vì việc này liên quan đến rất nhiều cơ quan, bộ ngành. Cùng với đó là ý chí của người đứng đầu nhà trường. Trên thực tế, có nhiều hiệu trưởng rất tâm huyết, muốn đổi mới nhưng cũng có những người không muốn điều này. Do vậy, rất cần một chủ trương quyết liệt từ bên trên.
Ngoài ra, việc tạo đồng thuận trong xã hội cũng vô cùng quan trọng. Muốn làm được điều này, các bên liên quan phải có phương án, lộ trình phù hợp.
Cho đến nay, nghiên cứu của chúng tôi cơ bản đã hoàn thành, đang trong giai đoạn chỉnh sửa, chỉ còn phần nghiên cứu tác động của các kịch bản, đặc biệt là kịch bản giải thể tác động đến địa phương, cán bộ, sinh viên như thế nào.
Dự kiến, Bộ GD&ĐT sẽ trình Chính phủ phê duyệt đề án sắp xếp các trường đại học công hoạt động không hiệu quả vào quý 3 năm nay để bắt đầu triển khai từ năm 2020-2021.
Giữa nghiên cứu và chính sách muốn "gần nhau", đầu tiên phải "xa nhau", phải độc lập. Phía đặt bài không nên can thiệp, không áp đặt tư duy của nhà quản lý.
Bên nghiên cứu phải độc lập. Tư duy độc lập nhưng không được tạo ra "ốc đảo" mà cần trao đổi, sử dụng, kế thừa kết quả của nhau. Các nhà nghiên cứu sẽ có được nhiều thông tin hơn về chính sách của nhà nước, nắm được tình hình thực tiễn, các điểm nghẽn, từ đó nghiên cứu không phải trên giấy, lý thuyết. Đây cũng là cách chúng tôi đã và đang làm khi thực hiện đề tài này.
PGS.TS Hoàng Minh Sơn
Minh Thu ( thực hiện)
Theo Dân trí
Tên gọi trường đại học phải bảo đảm sự trong sáng của ngôn ngữ Cơ sở giáo dục đại học không được trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của cơ sở giáo dục đại học khác đã thành lập hoặc đăng ký. Bộ Giáo dục và Đào tạo đang lấy ý kiến về dự thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật...