Một số bệnh lý ở bé trai ảnh hưởng đến sinh sản
Bệnh lý vùng kín thường gặp ở các bé trai, gồm: thoát vị bẹn, tinh hoàn lạc chỗ, chít hẹp bao quy đầu, lỗ đái lệch thấp, nang thừng tinh,… Hầu hết các bệnh lý này đều ảnh hưởng đến khả năng sinh sản nếu không được điều trị. Do vậy, các bậc cha mẹ nếu thấy các bé có những bất thường phải cho bé đi khám để được điều trị.
Hẹp bao quy đầu
Bao qui đầu là một nếp da mỏng, dễ đàn hồi, trùm lên toàn bộ qui đầu của dương vật. Chít hẹp bao qui đầu là tình trạng vòng bao qui đầu bị hẹp ở các mức độ khác nhau nên không thể lộn được bao qui đầu. Đa số chít hẹp bao qui đầu là do bẩm sinh. Trẻ có dấu hiệu đái khó và phải rặn mạnh, tia nước tiểu nhỏ trong khi bao qui đầu chứa đầy nước tiểu căng phồng lên, vuốt nhẹ da bao qui đầu ra phía sau không nhìn thấy lỗ đái.
Thường khi bé vài ba tháng tuổi thì chưa cần quan tâm lắm đến vấn đề này nhưng bé từ 5 – 6 tháng tuổi trở lên, bố mẹ cần lưu ý. Bạn có thể phát hiện bằng cách vạch da quy đầu của bé xem lỗ có hẹp không hoặc quan sát lúc đi tiểu xem tia nước ra sao (nếu tia nước nhỏ như cái kim, bé khó tè, thậm chí da phần quy đầu phồng lên do nước và chất cặn bã tích lại thì chắc chắn bé bị bệnh này).
Hẹp bao quy đầu nếu không được xử lý sớm sẽ khiến bé đi tiểu khó, thậm chí thấy đau, khóc, nước tiểu ra không hết cộng với chất cặn đọng lại bên trong lâu dần thành những cục to, gây viêm nhiễm.
Cách khắc phục nếu bị bệnh: Khi bé 5 – 6 tháng tuổi, mỗi lần tắm cho con, bố mẹ có thể dùng tay nhẹ nhàng kéo lộn phần da quy đầu xuống, cứ thế mỗi lần một chút có thể khiến bao quy đầu rộng dần và trở về bình thường. Tuy nhiên, nếu sau một thời gian mà tình hình không cải thiện hoặc do lỗ quá hẹp thì phụ huynh nên đưa con đến gặp bác sĩ chuyên khoa để được tư vấn. Thường bác sĩ chỉ cần nong và tách phần da quy đầu bị hẹp rồi hướng dẫn gia đình tiếp tục chăm sóc bé sau đó. Trẻ lớn 5-6 tuổi trở lên vẫn bị tật này thì thường phải can thiệp bằng cắt da bao quy đầu.
Video đang HOT
Thoát vị bẹn
Đây là bệnh thường gặp ở trẻ em, thường một túi nhỏ thông từ khoang bụng chui ra lỗ bẹn sẽ được bít lại khi trẻ sinh ra nhưng vì lý do nào đó, túi thoát vị này không bít lại, các cơ quan trong ổ bụng như ruột chui vào và tạo nên một khối phồng ở vùng bẹn, bìu ở trẻ và gọi là thoát vị bẹn. Trường hợp khối thoát vị sa xuống mà không tự lên được thì trẻ sẽ rất đau và khóc nhiều, người ta gọi là thoát vị bẹn nghẹt, cần phải đưa trẻ đi khám cấp cứu ngay, đây là bệnh phải xử lý bằng ngoại khoa nếu không ruột sẽ bị hoại tử, rất nguy hiểm.
Trong những trường hợp khác thì cần theo dõi khi trẻ 4-5 tuổi trở lên mà khối thoát vị vẫn còn thì nên đưa đi khám chuyên khoa để được phẫu thuật.
Nhiều người nhầm lẫn bệnh này với nước màng tinh và ẩn tinh hoàn. Tuy nhiên, bố mẹ hoàn toàn có thể phân biệt: Khối phồng thường xuất hiện khi bé quấy khóc hoặc chạy nhảy, có thể di chuyển lên xuống mà không cố định, khi trẻ nằm thì xẹp đi. Các bé gái thường ít bị thoát vị bẹn hơn.
Ẩn tinh hoàn (tinh hoàn lạc chỗ)
Đây cũng là bệnh hay gặp ở các bé trai. Tinh hoàn là nơi sản xuất chất nội tiết sinh dục và tinh trùng cho bé trai. Trước khi đứa bé ra đời, tinh hoàn di chuyển từ trong ổ bụng xuyên qua thành bụng ở vùng bẹn vào vị trí bình thường là bìu. Nếu sự di chuyển gặp trục trặc tinh hoàn sẽ nằm đâu đó trên đường đi của nó. Hiện tượng này gọi là tinh hoàn ẩn. Khi ấy, bố mẹ sờ bìu của con không thấy có tinh hoàn.
Dị tật này dễ phát hiện và không cần đưa bé đi khám sớm quá vì thời gian đầu (trước 1 tuổi) tinh hoàn có thể tự đi xuống vị trí của nó. Sau một tuổi mà vẫn không sờ thấy tinh hoàn trong bìu con thì bố mẹ nên đưa đi khám, các bác sỹ chuyên khoa sẽ có lời khuyên đúng đắn. Nếu phải can thiệp bằng phẫu thuật để hạ tinh hoàn xuống bìu thì mổ ở 3-4 tuổi thường thuận lợi hơn khi trẻ đã lớn.
Giãn tĩnh mạch tinh
Trong số những trẻ bị bệnh lý vùng kín thì có trên 16% những trẻ từ 10 – 19 tuổi hay gặp bệnh giãn tĩnh mạch tinh. Đây là tình trạng giãn ngoằn ngoèo các tĩnh mạch nằm phía trên tinh hoàn. Nguyên nhân do gia tăng áp lực của tĩnh mạch thận trái hoặc van tĩnh mạch có bất thường. Giãn tĩnh mạch thừng tinh thường do máu chảy ngược về chỗ thấp (thay vì chảy về tim). Tĩnh mạch bị giãn làm ứ đọng máu vùng tinh hoàn. Tình trạng này gây cản trở việc tưới máu cho tinh hoàn, ảnh hưởng đến sản xuất tinh khi bé trai trưởng thành. Hầu hết dãn tĩnh mạch thừng tinh không có triệu chứng. Thỉnh thoảng, có thể gây đau nhẹ hay cảm giác nặng ở vùng bìu. Nếu tĩnh mạch thừng tinh giãn lớn, bạn có thể thấy sưng ở phía trên bìu. Bệnh có thể làm giảm khả năng sinh tinh trùng, teo tinh hoàn, đau bìu kéo dài.
Lỗ đái lệch thấp
Đây là một dị tật bẩm sinh khá phổ biến. Lỗ đái không đổ ra ở đỉnh quy đầu mà ở mặt dưới của dương vật, bìu và đáy chậu (ở vị trí từ gốc bìu tới lỗ hậu môn). Do vậy, bệnh nhân không tiểu tiện được một cách bình thường mà có khi phải đái ngồi như con gái, thậm chí tia nước tiểu còn vọt ra phía sau mông. Nếu lệch thấp về phía dưới, lỗ đái thường rộng; còn khi lệch về phía gần quy đầu thì lỗ đái thường hẹp và bệnh nhân đái khó, tia nhỏ. Bệnh cũng dễ phát hiện vì lỗ đái không đổ ra ở đỉnh quy đầu như bình thường mà ở một vị trí nào đó ở phần dưới dương vật, bìu khiến trẻ không tiểu tiện được bình thường mà có khi phải đái ngồi như bé gái. Lỗ này càng nằm xa vị trí đúng của nó thì càng khó chữa.
Bệnh này nên chữa sớm khi trẻ 5 – 6 tuổi. Nếu trẻ lớn hơn 10 tuổi sẽ khó phẫu thuật hơn vì lúc này trẻ thường có phản xạ cương dương vật nên vết thương khó lành.
Theo Bưu Điện Việt Nam
Giãn tĩnh mạch tinh có gây vô sinh ở nam giới?
Giãn tĩnh mạch tinh là một trong những căn bệnh thường gặp ở nam giới, ước tính khoảng 15% nam giới mắc bệnh này. Nhiều người cho rằng đây là nguyên nhân dẫn đến vô sinh nam. Thực hư thế nào?
Theo Tiến sĩ - Bác sĩ Nguyễn Thành Như, khoa Nam học, Bệnh viện Bình Dân TP.HCM, phần lớn bệnh giãn tĩnh mạch tinh (GTMT) không có biểu hiện rõ rệt, nhiều trường hợp GTMT không có triệu chứng. Một số dấu hiệu người bệnh có thể nhận biết như cảm giác nặng tức, khó chịu, đau tinh hoàn. Đặc biệt, đau tăng khi ngồi lâu, đứng lâu, hoặc hoạt động gắng sức như tập thể dục; đau về buổi chiều tối, nằm nghỉ thì hết đau. Nhìn thấy hoặc sờ thấy các tĩnh mạch giãn lớn ở vùng bìu. Một số người có tĩnh mạch giãn lớn trông như búi giun ở vùng bìu hai bên. Ngoài ra, dấu hiệu có thể nhận thấy ở người mắc bệnh GTMT là tinh hoàn nhỏ, mềm.
Hiện nay, nguyên nhân của GTMT vẫn chưa rõ và đang được nghiên cứu. Nhưng có lẽ do tư thế đi hai chân của loài người là yếu tố quan trọng dẫn đến một số bệnh lý bởi trọng lực gây ra như thoát vị bẹn (sa ruột), trĩ, giãn tĩnh mạch chân và GTMT.
Để chẩn đoán bệnh GTMT chúng ta có thể chụp X quang các tĩnh mạch tinh. Tuy nhiên, xét nghiệm này vừa phức tạp, vừa có thể gây biến chứng nặng như sốc phản vệ, chảy máu, nên trên thực tế không bác sĩ nào cho chụp X quang để biết bệnh nhân có bị GTMT hay không. Đối với GTMT thì siêu âm cũng có nhiều điều đáng lo ngại, tỉ lệ chẩn đoán dương tính giả (siêu âm nói có bệnh mà thực tế là không có bệnh) và âm tính giả (siêu âm nói không, nhưng thực tế bệnh nhân có bệnh) khá cao. Do vậy, biện pháp tốt nhất hiện nay là khám trực tiếp bệnh nhân ở tư thế đứng, rồi nằm, sẽ cho biết có bệnh hay không.
GTMT có thể gây những biến đổi mô học của hai tinh hoàn, khiến tinh hoàn ngừng phát triển hoặc giảm kích thước, tinh dịch đồ bất thường: chức năng sinh tinh giảm, tinh trùng ngưng trưởng thành, xơ hóa mô kẽ, chức năng tế bào sản xuất testosterone (nội tiết tố nam) bị giảm. Thông thường, sự điều hòa nhiệt độ ở tinh hoàn được bảo đảm bằng hai cơ chế: da bìu có khả năng co giãn cao, sẽ giãn ra khi nóng và búi tĩnh mạch tinh giúp làm nguội máu từ động mạch tới tinh hoàn. Khi tĩnh mạch tinh bị giãn, tinh hoàn sẽ có nhiệt độ cao và không làm nguội máu động mạch được nữa.
TS-BS Nguyễn Thành Như cho biết: Không phải hễ bị GTMT là bị vô sinh, 80% nam giới bị GTMT không bị hiếm muộn. Tuy nhiên, trong số những người vô sinh thì có đến 35 - 40% nam giới vô sinh nguyên phát (người đó chưa từng có con) bị GTMT và 69 - 81% nam giới vô sinh thứ phát (đã từng có con) bị GTMT.
GTMT có thể điều trị bằng hai phương pháp: phẫu thuật cột tĩnh mạch tinh giãn (vi phẫu thuật hay phẫu thuật nội soi) và thuyên tắc tĩnh mạch tinh. Trong các phương pháp phẫu thuật, phương pháp phẫu thuật cột tĩnh mạch tinh vi phẫu ngã bẹn - bìu hai bên có tỉ lệ thành công cao nhất. Sự phóng đại hình ảnh khi phẫu thuật với kính hiển vi hoặc kính lúp vi phẫu giúp bác sĩ nhận biết rõ ràng các tĩnh mạch tinh giãn, bảo tồn được động mạch và hệ bạch mạch quanh bó mạch tinh. Sau khi gây mê hay gây tê tủy sống, bác sĩ rạch một đường nhỏ ở vùng bụng dưới để tiến hành phẫu thuật, thừng tinh hai bên bẹn và vùng bìu được kéo ra qua vết mổ, các tĩnh mạch giãn được cột lại bằng các mối chỉ không tan.
Theo PNO
Vượt qua đau đớn để học giỏi Em bị bệnh tim từ khi lọt lòng mẹ, nhưng cả nhà không một ai hay biết, chỉ thấy em hay khò khè, khó thở... Em èo uột lớn lên trong sự nghèo khó của gia đình. Nhà nghèo, mẹ phải gửi em cho ngoại để một buổi lên lớp dạy, một buổi đeo em trên lưng đi gánh nước thuê hay giúp...