Môn Công nghệ: Góp phần thúc đẩy giáo dục STEM ở phổ thông
Trong Chương trình giáo dục phổ thông mới, giáo dục công nghệ cho học sinh được thực hiện từ lớp 3 đến lớp 12 thông qua môn Tin học và Công nghệ ở tiểu học và môn Công nghệ ở trung học.
ảnh minh họa
Công nghệ là môn học bắt buộc trong giai đoạn giáo dục cơ bản, là môn học lựa chọn thuộc nhóm Công nghệ và Nghệ thuật trong giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp.
Góp phần thúc đẩy giáo dục STEM ở phổ thông
Cùng với Toán học, Khoa học tự nhiên, Tin học, môn Công nghệ góp phần thúc đẩy giáo dục STEM ở phổ thông – một trong những xu hướng giáo dục đang được coi trọng tại Việt Nam và ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Giáo dục công nghệ phổ thông chuẩn bị cho học sinh học tập và làm việc hiệu quả trong môi trường công nghệ ở gia đình, nhà trường và xã hội; hình thành và phát triển các năng lực thiết kế, sử dụng, giao tiếp, đánh giá, và hiểu biết công nghệ; góp phần phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp; chuẩn bị cho học sinh các tri thức nền tảng để theo học các ngành nghề thuộc các lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ theo cả hai hướng hàn lâm và giáo dục nghề nghiệp.
Cùng với các lĩnh vực giáo dục khác, giáo dục công nghệ góp phần hình thành và phát triển các năng lực tự chủ và tự học; giao tiếp và hợp tác; giải quyết vấn đề và sáng tạo; các phẩm chất được nêu trong chương trình giáo dục phổ thông tổng thể. Với đặc thù của ngành, môn Công nghệ có ưu thế trong hình thành và phát triển năng lực công nghệ, thể hiện ở 5 năng lực thành phần trong mô hình dưới đây
Chương trình môn Công nghệ được xây dựng dựa trên các yêu cầu cần đạt cho từng cấp học và bậc học phổ thông, tạo cơ hội hình thành và phát triển các phẩm chất chủ yếu, các năng lực chung cốt lõi và năng lực công nghệ cho học sinh.
Bên cạnh đó, phát triển chương trình giáo dục công nghệ bám sát các quan điểm khoa học và thực tiễn, kế thừa và phát triển, hội nhập và khả thi, hướng nghiệp, mở và linh hoạt.
Theo đó, chương trình dựa trên các thành tựu về lý luận dạy học kỹ thuật, tham chiếu các mô hình giáo dục công nghệ đang được sử dụng phổ biến trên thế giới; kế thừa những ưu điểm của chương trình môn Công nghệ hiện hành, sắp xếp, cấu trúc lại cho phù hợp với định hướng, mục tiêu phát triển năng lực và phẩm chất; phản ánh được những xu hướng quốc tế về giáo dục công nghệ phổ thông, đồng thời đảm bảo sự phù hợp với thực tiễn Việt Nam; phản ánh đầy đủ giáo dục STEM và tinh thần cơ bản của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; thực hiện chức năng giáo dục hướng nghiệp trên cả 2 phương diện định hướng nghề và trải nghiệm nghề, đảm bảo đồng bộ, nhất quán với các hoạt động giáo dục hướng nghiệp khác trong tổng thể chương trình giáo dục phổ thông.
Nội dung giáo dục công nghệ rộng, đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ khác nhau. Trong chương trình môn Công nghệ, có những nội dung cơ bản, cốt lõi, phổ thông tất cả học sinh đều phải học. Bên cạnh đó, có những nội dung có tính đặc thù, chuyên biệt nhằm đáp ứng nguyện vọng, sở thích của học sinh, phù hợp với yêu cầu của từng địa phương, vùng miền.
5 mạch nội dung chính
Video đang HOT
Chương trình môn Công nghệ có 5 mạch nội dung chính gồm: Công nghệ và đời sống; Công nghệ trong một số lĩnh vực sản xuất; Một số công nghệ phổ biến; Phát triển công nghệ; Hướng nghiệp.
Công nghệ ở tiểu học giới thiệu về thế giới kỹ thuật, công nghệ gần gũi với học sinh thông qua các chủ đề đơn giản về công nghệ và đời sống, một số sản phẩm công nghệ thường gặp trong gia đình, an toàn với công nghệ trong nhà; trải nghiệm với thiết kế kỹ thuật, công nghệ thông qua các hoạt động thủ công kỹ thuật, lắp ráp các mô hình kỹ thuật đơn giản, trồng và chăm sóc hoa, cây xanh trong môi trường gia đình, nhà trường.
Ở THCS, môn Công nghệ đề cập tới tri thức, kỹ năng về công nghệ trong phạm vi gia đình; những nguyên lý cơ bản về các quá trình sản xuất chủ yếu; cơ sở ban đầu về thiết kế kỹ thuật; phương pháp lựa chọn nghề cùng với thông tin về các nghề nghiệp thuộc các lĩnh vực sản xuất chủ yếu thông qua các mạch nội dung: Công nghệ trong gia đình; Nông – Lâm nghiệp; Thuỷ sản và Công nghiệp; Thiết kế kỹ thuật; Hướng nghiệp.
Nội dung môn Công nghệ trong giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp chú trọng tới những kiến thức tổng quan, đại cương và định hướng nghề về công nghệ thông qua các nội dung về bản chất của công nghệ, vai trò và ảnh hưởng của công nghệ với đời sống xã hội, mối quan hệ giữa công nghệ với các lĩnh vực khoa học khác; các tri thức, năng lực nền tảng phù hợp và kết nối được với các lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ thuộc một trong hai định hướng Công nghiệp và Nông nghiệp mà học sinh lựa chọn sau khi tốt nghiệp
Chú trọng dạy học định hướng phát triển năng lực, khi thiết kế hoạt động dạy học cho mỗi nội dung, chủ đề học tập, ngoài việc đạt được mục tiêu về kiến thức và kỹ năng cho nội dung đó, cần xác định cơ hội góp phần hình thành và phát triển các năng lực chung cốt lõi, các năng lực đặc thù môn học cùng những phẩm chất chủ yếu.
Đảm bảo mọi học sinh đều muốn và đều được phát biểu
Môi trường học tập cần an toàn và thoải mái, phát huy tối đa tính dân chủ trong lớp học; đảm bảo mọi học sinh đều muốn và đều được phát biểu, thực hành, đóng góp, ý kiến của bản thân trong các tình huống học tập đa dạng trong và ngoài lớp học. Giáo viên cần lựa chọn, sử dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học phát huy tính chủ động, sáng tạo, tích cực và phù hợp với sự hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho người học. Cần quan tâm tới học tập dựa trên hành động, trải nghiệm; tăng cường thực hành, vận dụng kiến thức giải quyết các vấn đề thực tiễn nhằm nâng cao hứng thú học tập của học sinh, góp phần hình thành năng lực, phẩm chất môn học đảm nhiệm.
Ở giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp, bên cạnh việc tăng cường thực hành, trải nghiệm cho các nội dung dạy học cụ thể về cơ khí – động lực, điện – điện tử cũng như từng giai đoạn của quá trình thiết kế, học sinh còn thực hiện dự án học tập trên cơ sở vận dụng tổng hợp quy trình thiết kế và các công nghệ đã được đề cập.
Giáo viên cần khai thác có hiệu quả hệ thống các thiết bị dạy học tối thiểu theo nguyên lý thiết bị, phương tiện dạy học là nguồn tri thức chứ không phải là đối tượng minh hoạ nội dung học tập. Cần coi trọng các nguồn tư liệu ngoài SGK và hệ thống các thiết bị được trang bị; khai thác triệt để những lợi thế của công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy học trên các phương diện lưu trữ tri thức, đa phương tiện, mô phỏng, kết nối, môi trường học tập.
Sử dụng đa dạng các phương pháp, hình thức đánh giá
Trong dạy học công nghệ, cần sử dụng đa dạng các phương pháp, hình thức, công cụ đánh giá đảm bảo đánh giá toàn diện học sinh; chú trọng đánh giá bằng quan sát trong cả hai trường hợp đánh giá quá trình và sản phẩm. Với mỗi nhiệm vụ học tập, tiêu chí đánh giá cần được thiết kế đầy đủ, hướng tới các yêu cầu cần đạt và được công bố ngay từ đầu để định hướng cho học sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ học tập; công cụ đánh giá cần phản ánh được mức độ đạt được đã nêu trong mỗi chủ đề, mạch nội dung.
Cần kết hợp hài hoà giữa đánh giá quá trình và đánh giá tổng kết. Trong đó, đánh giá quá trình phải được tiến hành thường xuyên, liên tục và tích hợp vào trong các hoạt động dạy học, đảm bảo mục tiêu đánh giá vì sự tiến bộ trong học tập của học sinh.
Cần thay đổi nhận thức về vai trò, vị trí của giáo dục công nghệ ở phổ thông, thực hiện quan điểm giáo dục toàn diện cho học sinh. Cơ sở giáo dục cần đảm bảo đội ngũ giáo viên dạy công nghệ đủ về số lượng, được đào tạo đúng chuyên môn.
Với các trường sư phạm, bên cạnh đào tạo giáo viên ngành Sư phạm kỹ thuật công nghiệp và Sư phạm kỹ thuật nông nghiệp, cần sớm triển khai đào tạo giáo viên ngành Sư phạm công nghệ.
Cơ sở giáo dục cần được trang bị đầy đủ các phương tiện, thiết bị dạy học tối thiểu theo yêu cầu. Cần thiết kế, triển khai phòng học bộ môn Công nghệ theo định hướng thực hành và trải nghiệm, kết nối và hỗ trợ với hoạt động giáo dục STEM, nghiên cứu khoa học kỹ thuật dành cho học sinh trung học, vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các vấn đề thực tiễn. Đặc biệt quan tâm tới sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học, trong đó chú trọng đa phương tiện và mô phỏng.
Theo Vietnamnet
Chương trình giáo dục mới: Văn hết thuộc lòng, toán gắn thực tiễn
Dự thảo các chương trình môn học trong chương trình giáo dục phổ thông mới sẽ được Bộ Giáo dục và Đào tạo lấy ý kiến góp ý trong tháng 1-2018
Chương trình phổ thông mới tập trung các buổi thực hành, phát triển năng lực người học Ảnh: TẤN THẠNH
với báo chí, GS Nguyễn Minh Thuyết, Tổng Chủ biên Chương trình Giáo dục phổ thông tổng thể, cho biết chương trình các môn học đã được chỉnh sửa, hoàn thiện trên cơ sở góp ý của nhiều chuyên gia, giáo viên. Các môn được biên soạn theo chương trình tổng thể nên bảo đảm tính nhất quán, liên thông.
Khuyến khích học sinh thể hiện quan điểm riêng, sáng tạo
Theo GS Nguyễn Minh Thuyết, chương trình tiếng Việt (ở bậc tiểu học)/ngữ văn (bậc THCS, THPT) mới xây dựng theo hướng mở, không quy định chi tiết về nội dung dạy học và các văn bản cụ thể mà chú trọng đến những yêu cầu cần đạt về đọc, viết, nói và nghe ở mỗi lớp.
Nhằm tránh tình trạng bắt học sinh (HS) học thuộc lòng văn mẫu, theo chương trình mới, HS được thể hiện phẩm chất, năng lực ngôn ngữ, năng lực thẩm mỹ và khuyến khích các bài viết thể hiện quan điểm riêng, sáng tạo.
Ở cấp THPT sẽ chỉ còn 6 tác phẩm văn học bắt buộc là bài thơ "Thần", "Hịch tướng sĩ", "Bình Ngô đại cáo", "Truyện Kiều", "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" và "Tuyên ngôn độc lập". Các tác phẩm văn học khác đưa vào phụ lục. Những nhóm tác giả viết sách giáo khoa có thể chủ động lựa chọn các tác phẩm khác nhau đưa vào sách nhưng phải hướng đến việc phát triển năng lực, phẩm chất HS.
GS Đỗ Đức Thái - thành viên Ban phát triển Chương trình Giáo dục phổ thông tổng thể, Chủ biên Chương trình môn toán - cho hay chương trình giáo dục toán học phổ thông trước đây quan tâm nhiều đến chuyện được học những đơn vị kiến thức nào, giải được bao nhiêu dạng bài tập, đi thi được bao nhiêu điểm. Trong khi đó, điểm mới quan trọng nhất, quyết định nhất ở chương trình phổ thông mới môn toán là tinh giản, thiết thực, sáng tạo, chuyển từ việc tiếp cận nội dung sang phát triển năng lực người học.
Nội dung môn toán phản ánh những giá trị cốt lõi, nền tảng của toán học; đồng thời chú trọng tính ứng dụng, gắn kết với đời sống thực tế hay các môn học khác. Đặc biệt, ở từng cấp học, cũng dành nhiều thời gian cho các hoạt động trải nghiệm toán học như thực hiện đề tài, dự án học tập về ứng dụng toán học trong thực tiễn, tổ chức các trò chơi toán học...
Lịch sử: không còn né tránh
Cấu trúc nội dung chương trình môn lịch sử và địa lý đổi mới khá căn bản. Chương trình lịch sử chỉ lựa chọn những sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu của vùng miền, quốc gia, khu vực, một số giai đoạn lịch sử, không tuân thủ nghiêm ngặt tính lịch đại. Hình thức dạy học chú trọng lối kể chuyện, dẫn chuyện lịch sử, giáo viên giúp cho HS làm quen với lịch sử địa phương, lịch sử dân tộc, khu vực và thế giới qua các câu chuyện lịch sử. Thông qua đó, tạo cơ sở để HS bước đầu nhận thức về khái niệm thời gian, không gian, đọc hiểu các nguồn sử liệu đơn giản về sự kiện, nhân vật lịch sử.
GS Phạm Hồng Tung, Chủ biên Chương trình môn lịch sử mới, khẳng định ở cấp tiểu học, môn lịch sử và địa lý được dạy học từ lớp 4. Sự tích hợp sẽ theo logic kết nối 2 loại hình không gian: của địa lý là địa phương, đất nước và thế giới; của lịch sử là không gian gia đình - cộng đồng - dân tộc - thế giới.
Ở THCS, lịch sử và địa lý là môn học tích hợp nhưng ở mức độ tương đối thấp, có thể gọi là phối hợp giữa 2 phân môn khá độc lập. Chỉ có một số chủ đề tích hợp như biển Đông gồm kiến thức tổng hợp về nhiều vấn đề như: địa lý biển, kinh tế biển, lãnh hải, việc xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam với Trường Sa, Hoàng Sa, các cuộc chiến tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo...
Ở THPT, lịch sử là môn độc lập nhưng là môn lựa chọn để phù hợp với việc phân hóa, hướng nghiệp cho HS.
GS Nguyễn Minh Thuyết cho hay nếu chương trình và sách giáo khoa lịch sử hiện hành viết riêng lịch sử thế giới, sau đó là lịch sử Việt Nam thì nội dung lịch sử trong chương trình mới ở cấp THCS lấy thời gian làm trục xuyên suốt. Ở mỗi giai đoạn lịch sử đều cố gắng thiết kế theo mô hình: thế giới - khu vực - Việt Nam - lịch sử địa phương. Trong đó lấy lịch sử Việt Nam làm trọng tâm, chiếm 60% thời lượng của chương trình.
Trước đó, GS Phạm Hồng Tung cũng chương trình lịch sử mới được xây dựng trên quan điểm không có gì không thể nói và không được nói. Vấn đề là trình bày sao cho khoa học, nhân văn, tiến bộ. Những chuyện trong quá khứ vì lý do nào đó trước đây chúng ta né tránh hoặc chưa dạy thấu đáo, giờ đều có thể được đưa vào, sao cho phù hợp với năng lực nhận thức và tâm lý lứa tuổi của HS.
GS Tung khẳng định nhất thiết phải dạy HS về chủ quyền biển đảo của Việt Nam, về lịch sử đấu tranh của dân tộc nhằm bảo vệ và thực thi chủ quyền đó, chẳng hạn các cuộc hải chiến Hoàng Sa (1974), trận Gạc Ma bảo về Trường Sa (1988), cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Tây Nam (1975-1978), chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc (1979-1989)... cũng như nhiều vấn đề khác.
Những người viết chương trình đã đưa cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc vào chương trình mới theo tinh thần của lịch sử là hướng tới tính nhân văn, nhân bản, không khơi sâu thêm hận thù, ghi công hay luận tội ai trong quá khứ.
Bắt buộc có hoạt động trải nghiệm
Chương trình phổ thông mới lần đầu tiên đưa vào chương trình hoạt động trải nghiệm, thực hiện bắt buộc từ lớp 1 đến lớp 12.
Ở tiểu học, chương trình này được gọi là hoạt động trải nghiệm; tập trung nhiều hơn vào các hoạt động phát triển bản thân, kỹ năng sống, quan hệ với bạn bè, thầy cô và người thân trong gia đình. Cấp THCS và THPT gọi là hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp; tập trung nhiều hơn vào các hoạt động xã hội, phục vụ cộng đồng. Ở THPT, chương trình hoạt động trải nghiệm tập trung cao hơn vào giáo dục hướng nghiệp giúp HS tự chọn ngành nghề phù hợp tương lai.
Theo NLĐ
Chương trình giáo dục phổ thông mới: Thay đổi từng môn học Chương trình giáo dục phổ thông mới được đổi mới theo hướng trang bị những năng lực, phẩm chất cụ thể cho học sinh nên chương trình của mỗi môn học cũng dự kiến thay đổi mạnh mẽ để đáp ứng yêu cầu này. Môn học, hoạt động giáo dục trong chương trình giáo dục phổ thông mới mà học sinh phải học...