Mới nhập học phải đóng phí cả 4 năm!
Không chỉ học phí, gánh nặng tài chính với thí sinh trúng tuyển làm thủ tục nhập học vào các trường ĐH, CĐ còn ở nhiều khoản phí khác. Trong đó có khoản phí với tên gọi “lạ”, thậm chí vừa nhập học đã phải nộp một lần cho cả 4 năm.
Phụ huynh, sinh viên đóng học phí và các khoản khác vào đầu năm học – NGỌC DƯƠNG
Bảo hiểm thu mỗi nơi mỗi kiểu !
Theo thông báo của Bảo hiểm xã hội TP.HCM, mức đóng bảo hiểm y tế học sinh và sinh viên (SV) với các trường trên địa bàn áp dụng cho năm học 2018 – 2019 (12 tháng) là 750.600 đồng. Trong đó, người học đóng 70% là 525.420 đồng và ngân sách nhà nước hỗ trợ 30% còn lại. Người học có thể đóng 3, 6, 9 hoặc 12 tháng tính theo năm tài chính. Tuy nhiên, việc thu bảo hiểm này ở các trường tại TP.HCM vẫn mỗi nơi một kiểu. Có trường chỉ yêu cầu SV đóng bảo hiểm y tế theo 3 tháng như Trường CĐ Kinh tế TP.HCM. Còn Trường ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch thu 15 tháng…
Không chỉ bảo hiểm y tế, bảo hiểm thân thể cũng là khoản phí nhập học thường thấy ở nhiều trường. Một số trường ĐH ghi rõ về khoản thu tự nguyện này SV có quyền đóng hoặc không như: Nông Lâm TP.HCM, Sư phạm kỹ thuật TP.HCM… Ngược lại, có trường thu cả 4 năm như: Học viện Chính sách và phát triển (Bộ Kế hoạch – Đầu tư). Ở một số trường khác, mức thu này khác nhau: Trường ĐH Phú Yên thu 150.000 đồng/năm; Trường ĐH Kiến trúc Đà Nẵng chỉ thu 70.000 đồng/năm; Trường ĐH Thăng Long thu 197.000 đồng/SV cho 4 năm…
Lệ phí giữ chỗ
Ngoài bảo hiểm, nhiều trường còn đưa ra nhiều khoản phí khác nhau, trong đó có khoản thu một lần cho cả 4 năm ngay khi SV nhập học năm đầu tiên.
Học viện Chính sách và phát triển thông báo thủ tục nhập học đối với thí sinh trúng tuyển kỳ thi tuyển sinh ĐH chính quy năm nay. Theo đó, lệ phí thi xếp trình độ Anh văn đầu vào 330.000 đồng/SV. Đáng lưu ý là một số khoản chỉ thu một lần cho 4 năm học như: Đoàn phí 96.000 đồng, phí khác 300.000 đồng (gồm hồ sơ SV, sổ ngoại trú, giấy chứng nhận tuần sinh hoạt công dân đầu khóa, phiếu khảo sát tuần sinh hoạt công dân đầu khóa, giấy chứng nhận ngày công tác xã hội khi tốt nghiệp ra trường, sổ tay SV và tài liệu học tập tuần lễ học tập công dân đầu năm…). Tương tự, Trường ĐH Thăng Long cũng thu Đoàn phí một lần cho 4 năm là 144.000 đồng.
Lệ phí nhập học cũng mỗi nơi mỗi kiểu. Bên cạnh học phí theo đơn giá tín chỉ tùy theo khối ngành, Trường ĐH Phú Xuân thu lệ phí giữ chỗ và nhập học lên tới 3,5 triệu đồng/SV. Trong khi đó, Học viện Nông nghiệp VN thu lệ phí nhập học 335.000 đồng/SV. Lệ phí nhập học ở Trường ĐH Bình Dương là 450.000 đồng/SV.
Riêng tại Trường ĐH Kiến trúc Đà Nẵng, lệ phí nhập học 200.000 đồng được trường diễn giải gồm: thủ tục nhập học và chi phí các loại giấy tờ như thẻ SV, thẻ thư viện, chứng chỉ giáo dục quốc phòng an ninh, chứng chỉ giáo dục thể chất, gửi thông báo cho gia đình về kết quả học tập và rèn luyện của SV trong suốt quá trình học.
Trường ĐH Tây Đô thu 400.000 đồng cho các khoản: lệ phí nhập học, thẻ SV và mở tài khoản, duy trì số dư tài khoản, sinh hoạt đầu khóa và phí gửi bảng điểm về gia đình, khám sức khỏe. Dù quy định không bắt buộc SV phải mặc đồng phục đến trường nhưng ngay khi nhập học, trường ĐH này thông báo rõ giá mỗi áo sơ mi đồng phục là 130.000 đồng.
Ngay phí khám sức khỏe nhập học cũng mỗi trường một kiểu. Trong khi một số trường chỉ thu ở mức 50.000 – 65.000 đồng/SV, Học viện Chính sách và phát triển thu 300.000 đồng/SV.
Ngoài ra, một số lệ phí có tên gọi khá “lạ” cũng thấy trong thông báo nộp tiền một số trường. Trường ĐH Hoa Lư thu 100.000 đồng/SV về “thông tin đào tạo và sổ tay SV”. Trường ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch thu phí hồ sơ và phí hành chính 200.000 đồng/SV. Trường ĐH Phú Yên yêu cầu SV đóng tiền mặt khi đến làm thủ tục nhập học các khoản: lệ phí duy trì thẻ liên kết 50.000 đồng/SV, tiền trang bị dụng cụ ban đầu cho cá nhân 100.000 đồng/năm học…
Video đang HOT
Trường ĐH Phú Xuân thông báo một số khoản thu hộ và chi hộ như chi phí 4 tuần học kỳ quân đội gồm tiền ăn (45.000 đồng/ngày) và tiền điện, nước (70.000 đồng/SV).
Tiến sĩ Trần Hữu Trung, Trưởng ban Đào tạo Trường ĐH Phú Xuân, cho biết số lệ phí nhập học 3,5 triệu đồng trường thu để chi cho nhiều hoạt động phục vụ SV. Trong đó, trọng tâm là hoạt động học kỳ quân đội gồm học phí và chi phí tổ chức chuỗi sự kiện đón tiếp SV, lễ ra quân, hoạt động thiện nguyện phát quà trong đêm trung thu… Ngoài ra, số tiền này còn bao gồm chi phí đồng phục, thẻ SV, túi xách trang bị cho SV.
Theo thanhnien.vn
Sửa đổi Luật Giáo dục đại học: Thảo luận về danh xưng hay về chất lượng thực tế
"Việc có trường đại học trong đại học không quan trọng bằng việc đánh giá xem sự kết nối giữa các trường thành viên của các đại học đó có hiệu quả hay không, có đem lại lợi ích cho người học hay không, có tạo ra sản phẩm tri thức phục vụ cho cộng đồng tốt hay không".
TS Phạm Hiệp, nhà nghiên cứu giáo dục nêu quan điểm về mô hình hệ thống giáo đại học, đại học, trường đại học mà các chuyên gia giáo dục đang bàn thảo góp ý cho sửa đổi Luật Giáo dục đại học.
TS Phạm Hiệp
Phóng viên: Trong các thảo luận gần đây về dự thảo sửa đổi một số điều của Luật Giáo dục Đại học (GDĐH), có một số ý kiến khác nhau về mô hình hệ thống giáo đại học, đại học, trường đại học, là người nghiên cứu về GDĐH ông có nhận xét gì về việc này?
TS. Phạm Hiệp: Theo tôi hiểu, mục tiêu của lần sửa đổi này là để giải quyết những vướng mắc nhằm tạo khung pháp lý rộng nhất cho các cơ sở GDĐH phát huy hết tiềm năng của mình. Đây là cơ hội tốt để đưa ra một hành lang pháp lý mới cho cả hệ thống giáo dục đại học Việt Nam và qua đó giúp các cơ sở giáo dục đại học thực sự trở thành trung tâm của nền kinh tế xã hội và văn hóa của đất nước.
Trong các nội dung được sửa đổi, trọng tâm được đặt ra là làm sao tạo ra một cơ chế mới phát huy tốt hơn quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở GDĐH - điều đã được giới chuyên môn chỉ ra là yếu tố bản lề giúp nâng cao chất lượng GDĐH.
Trong quá trình thảo luận, tôi cũng nhận thấy có những ý kiến về mô hình hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam. Bởi vì, chúng ta có các Đại học Quốc gia, các Đại học Vùng, Trường Đại học, Học viện. Có ý kiến cho rằng mô hình hệ thống GDĐH của chúng ta chưa được "mạch lạc", cho nên cần có những thay đổi.
Tôi nghĩ chúng ta muốn đánh giá về hiệu quả của một mô hình, cần có những dữ liệu và bằng chứng về nó chứ không thể nói dựa trên quan sát cảm tính. Thí dụ: kết quả nghiên cứu khoa học thế nào, uy tín học thuật ra sao, sinh viên ra trường không có việc làm hay không, nhà tuyển dụng họ đánh giá thế nào... Nếu mô hình cơ sở GDĐH nào không đáp ứng những chỉ số này thì đúng là cần thay đổi một cách căn bản về mô hình với những cơ sở giáo dục đại học như vậy.
Còn những thực thể đại học đã định hình, đã khẳng định được thương hiệu và vị trí thì không nên thay đổi quá nhiều gây rối loạn hệ thống chung và bên trong các cơ sở này. Thí dụ, gần đây chúng ta đều biết, trong bảng xếp hạng đại học quốc tế của tổ chức QS lần đầu tiên có tên hai ĐHQG của Việt Nam trong top 1000 đại học tốt nhất của thế giới. Theo QS Châu Á, 3/5 cơ sở đại học nằm ở Top 150 cũng là các ĐHQG và ĐH vùng.
Các ĐHQG và ĐH vùng cũng là các đơn vị năng động trong việc đón đầu các xu thế mới trong GDĐH như kiểm định chất lượng, đổi mới thi tuyển sinh, bằng kép, đào tạo liên ngành, gắn kết đào tạo với NCKH, NCKH theo chuẩn mực quốc tế ....
Điều này có được một phần nhờ việc các ĐH này có quyền tự chủ cao, lợi thế liên ngành, khả năng khai thác các nguồn lực chung.
Tất nhiên, ĐHQG và ĐH vùng cũng có những vấn đề nội tại, đôi khi xuất phát từ do sự thiếu nhất quán và không đồng bộ về chủ trương, quan điểm và khung pháp lý. Ví dụ, có vẻ như Thông tư 08 về các Đại học Vùng lại tạo ra khoảng cách cho các trường đại học thành viên thay vì thúc đẩy họ hỗ trợ gần nhau như nỗ lực và mục tiêu ban đầu.
Theo tôi, để điều chính việc này cần tăng cường hỗ trợ, xóa bỏ các rào cản chính sách hơn là tạo ra sự phân tâm bằng những chính sách quá mới mà chưa được nghiên cứu, phân tích tác động một cách thấu đáo.
Nhóm nghiên cứu của GS.TSKH Lưu Văn Bôi (Khoa Hóa học - Trường ĐH Khoa học Tự nhiên - ĐHQGHN) với sản phẩm nghiên cứu là diesel sinh học (ảnh: Bùi Tuấn)
Phóng viên: Nhưng cũng có ý kiến cho rằng mô hình trường đại học trong đại học (University trong University) là không giống ai? Ông có nhận xét gì về điều này?
TS. Phạm Hiệp: Cơ cấu một cơ sở giáo dục đại học trên thế giới rất đa dạng, chứ không có khuôn mẫu chung. Một số nơi đơn vị trực thuộc trong cơ cấu trường đại học (university) là college (hay được dịch là Trường), faculty (hay được dich là Khoa), school (hay được dịch là Trường), department (Khoa hoặc Bộ môn), institute (Viện).
Nhưng, với sự hiểu biết của tôi, có thể nói không hề có một công thức chung nào cho cơ cấu nội bộ của một trường đại học. Có nơi áp dụng mô hình university - college - department; có nơi lại áp dụng mô hình university - school - faculty - department và hầu như rất ít nơi, người ta quy định cứng nhắc đơn vị con thuộc university là phải như thế nào như quy định hiện hành ở Việt Nam.
Trường nơi tôi học tiến sĩ ở Đài Loan thì cấp institute lại là cấp thấp nhất, thấp hơn college và dưới university. Mặc dù rõ ràng khi dịch ra tiếng Việt, institute là Viện làm chúng ta tưởng là rất to.
Bên cạnh đó, cũng có khá nhiều nơi áp dụng mô hình giống mô hình ĐHQG hay ĐH vùng như ở Việt Nam, tức là university trong university. Ví dụ, ĐHQG Ireland, ĐH Phillipines là những đại học có các trường đại học thành viên, các university nằm trong university.
Từ những năm 1970, Mỹ cũng có mô hình ĐH California cũng là trường đại học trong đại học, sau đó được nhiều Bang khác học tập. Hay gần đây nhất, ở Pháp có một loạt các trường sáp nhập với nhau, như ĐH Paris 11, đã nhập với các trường khác tạo thành một ĐH mới là University of Paris-Saclay - ĐH bao trùm lên các trường thành viên. Các university mẹ kể trên đều là các thực thể, được điều hành bởi một bộ máy vận hành chung, có thực quyền.
Xu hướng sáp nhập này diễn ra là do sự cạnh tranh trong giới học thuật đỉnh cao ngày càng khốc liệt. Do vậy, "những con sói cô đơn" nhìn chung không hiệu quả trong sự cạnh tranh này, mà cần có sức mạnh tổng hợp với nguồn lực dồi dào.
Chính vì vậy, các cơ sở giáo dục đại học, hoặc là tự phát (khối tư nhân) hoặc được hoạch định (vai trò của nhà nước) đến với nhau, sáp nhập trong một thực thể mới để tạo thành sức mạnh tổng hợp chung, để kết nối nguồn lực của các trường thành viên. Cần lưu ý, các hệ thống mới này không đi theo hướng "hòa tan" các trường đại học thành viên, mà khai thác các nguồn lực chung, thương hiệu chung, có sự gắn kết hữu cơ, nhưng vẫn giữ một sự độc lập, tự chủ nhất định của các trường thành viên với nhau và với hệ thống chung.
Cho nên tôi nghĩ rằng việc có trường đại học trong đại học không quan trọng bằng việc đánh giá xem sự kết nối giữa các trường thành viên của các đại học đó có hiệu quả hay không, có đem lại lợi ích cho người học hay không, có tạo ra sản phẩm tri thức phục vụ cho cộng đồng tốt hay không.
Nếu chúng ta nhìn rộng ra trong toàn nền kinh tế xã hội thì tôi thấy các lĩnh vực khác họ không quan trọng lắm câu chuyện này. Thí dụ, phía doanh nghiệp, mô hình rất đa dạng. Hình thức công ty trong công ty không phải là hiếm và là thực tiễn bình thường. Quan trong chất lượng hoạt động ra sao.
Việc chỉ cho rằng university là đại học tổng hợp hay ngược lại cũng không hoàn toàn chính xác. Nếu điều này là đúng, thì chắc các cơ sở giáo dục như Massachusset Institute of Technology (Mỹ), Boston College (Mỹ) London School of Economics (Anh) sẽ không phải là đại học tổng hợp chăng, khi họ có cơ cấu đào tạo giống như các trường đại học đa ngành khác, nhưng trong tên cũng chẳng có thuật ngữ university. Hoặc, khi đó phải chăng lại gọi Havard University là Trường Đại học Tổng hợp Havard, thay cho cách gọi đã định hình là Đại học Havard?
Tôi nghĩ không nên mất quá nhiều thời gian về việc này, mà nên bàn nhiều về các giải pháp thúc đẩy chất lượng. Tôi không tin là thay đổi cái tên thì chất lượng các cơ sở giáo dục đại học và hệ thống giáo dục đại học sẽ khởi sắc. Dự thảo sửa đổi một số điều Luật GDĐH còn rất nhiều nội dung chúng ta cần phải ưu tiên, quan tâm và xử lý một cách thấu đáo mà dường như chúng ta chưa dành đủ thời gian để thảo luận.
Phóng viên: Vậy theo ông, điều gì là cần ưu tiên xử lý trong lần sửa Luật GDĐH lần này?
TS. Phạm Hiệp: Rất nhiều, có những vấn đề của lịch sử để lại, bên cạnh những vấn đề mà bối cảnh mới buộc chúng ta phải thay đổi. Ví dụ như chúng ta đều biết là Việt Nam theo mô hình Xô Viết trước đây, tách biệt giữa trường đại học và viện nghiên cứu, trường đại học thuần là giảng dạy còn viện nghiên cứu thuần nghiên cứu.
Các nhà hoạch định chính sách đã nhìn nhận ra vấn đề này và đã cố gắng xóa nhòa khoảng cách giữa trường đại học và viện nghiên cứu bằng nhiều cách. Ví dụ như trong Luật Giáo dục Đại học 2012, đã công nhận viện nghiên cứu đào tạo tiến sĩ là cơ sở giáo dục đại học.
Ngược lại, trong Luật Khoa học Công nghệ cũng coi các cơ sở giáo dục đại học là tổ chức khoa học công nghệ. Nhưng mà những biện pháp đưa ra dường như vẫn chưa đạt được những hiệu quả thực sự đáng kể. Khoảng cách giữa viện nghiên cứu và đào tạo vẫn còn quá xa, trong khi thực tiễn thế giới cho thấy rằng là 2 nội dung này cần phải kết nối với nhau và hòa quện với nhau thì mới tạo ra được vừa chất lượng nghiên cứu tốt, vừa vấn đề đào tạo tốt.
Cũng là vấn đề nghiên cứu, rất nhiều nhà khoa học đã kêu về sự tách biệt giữa nguồn chi đầu tư cho phòng thí nghiệm, cơ sở vật chất với nguồn để làm đề tài nghiên cứu, dẫn đến có những nhóm có phòng thí nghiệm, có cơ sở vật chất thì lại không có tiền để làm đề tài nghiên cứu và ngược lại, có tiền làm đề tài nghiên cứu thì lại không có cơ sở vật chất.
Bởi vì cơ chế cấp ngân sách cho việc này là đi theo 2 kênh khác nhau, kênh cơ sở vật chất và phòng thí nghiệm thì theo kênh của Bộ Kế hoạch và Đầu tư; kênh của nghiên cứu khoa học theo kênh của Bộ Khoa học Công nghệ. Thì những việc làm sao để xóa nhòa, giải quyết vấn đề này vẫn chưa được thảo luận một cách thấu đáo.
Một vấn đề nữa, chúng ta được biết là kiểm định chất lượng hay là minh bạch thông tin là những công cụ rất quan trọng hệ thống giáo dục đại học thì dường như chưa có nhiều thảo luận thấu đáo.
Hay là vấn đề e-learning, theo tôi nên dành nhiều thời gian xem xét vai trò của hệ đào tạo này và làm sao để phát triển được e-learning đáp ứng nhu cầu đào tạo từ xa, nhu cầu đào tạo lại, học tập suốt đời, thì dường như chúng ta bỏ quên.
Có lẽ chúng ta nên tập trung vào những nội dung đó, những vấn đề bản chất hơn là những thảo luận rất không cần thiết về cách gọi tên trường đại học như thế nào.
Xin trân trọng cám ơn TS!
Phan Đăng ( thực hiện)
Theo Dân trí
Trường ĐH Y dược TP.HCM: Thêm 46 học sinh dự bị dân tộc trúng tuyển Trường ĐH Y dược TP.HCM vừa có thêm 46 học sinh dự bị dân tộc được chấp nhận vào học, nâng tổng số thí sinh trúng tuyển vào trường năm nay lên 2.280 người. Sinh viên Trường ĐH Y dược TP.HCM thực hành tại bệnh viện - ẢNH: ĐÀO NGỌC THẠCH Hội đồng tuyển sinh Trường ĐH Y dược TP.HCM vừa ban hành...