Mở ngành và liên kết đào tạo với nước ngoài tại Việt Nam đang thực hiện thế nào?
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, hiện cả nước có 408 chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam, trong đó có tới 62,71% cơ sở Giáo dục đại học đối tác nước ngoài không được xếp hạng hoặc nằm ngoài danh sách 1.000 trường đại học trên thế giới.
Trường tăng, Bộ giảm
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, việc đẩy mạnh việc cạnh tranh trong tuyển sinh, các trường đã chủ động dừng tuyển sinh một số ngành đào tạo không còn đáp ứng nhu cầu của xã hội và chủ động thay thế bằng các ngành đào tạo mới phù hợp và cần thiết hơn trong bối cảnh kinh tế – xã hội hiện tại và xu hướng trong tương lai gần.
Số lượng ngành đào tạo do các cơ sở Giáo dục đại học (GDĐH) tự chủ mở tăng lên đáng kể (tăng 1,5 lần so sánh 2016 và 2021) trong khi số lượng ngành đào tạo do Bộ GDĐT phê duyệt ngày càng giảm mạnh (giảm hơn 3 lần so sánh 2016 và 2021), cụ thể:
Mở ngành đào tạo từ năm 2016 đến 2021 theo thẩm quyền tại các cơ sở GDĐH bảo đảm điều kiện tự chủ đại học (Nguồn: Bộ GD&ĐT)
Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng đào tạo, quy định pháp lý về điều kiện đảm bảo chất lượng mở ngành đào tạo đối với các trình độ về GDĐH ngày càng chặt chẽ và phù hợp với thực tiễn.
Các đại học quốc gia, đại học vùng và 23 trường đại học được thí điểm tự chủ theo Nghị quyết số 77/NQ-CP rất cân nhắc khi mở ngành đào tạo, đặc biệt ở trình độ tiến sĩ.
Số liệu mở ngành đào tạo từ năm 2016 đến 2021 theo trình độ đào tạo (đại học, thạc sĩ và tiến sĩ), (Nguồn: Bộ GD&ĐT)
Cơ sở GDĐH đẩy mạnh quản lý chất lượng, nâng cao chất lượng các lĩnh vực đào tạo mũi nhọn, uy tín và truyền thống của trường thông qua việc phát triển đội ngũ giảng viên, nghiên cứu khoa học, nâng cấp cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm…
Một số cơ sở GDĐH đã gặt hái được thành công thông qua kết quả về xếp hạng đại học ở các tổ chức xếp hạng uy tín trên thế giới.
Năm 2022, Tổ chức giáo dục Quacquarelli Symonds (QS) công bố Bảng xếp hạng các trường đại học theo lĩnh vực: Ở lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ, Việt Nam có 5 đại học được xếp hạng cao trong tốp 500 thế giới, gồm Trường Đại học Bách khoa Hà Nội (xếp hạng 360), Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh (xếp hạng 362), Đại học Quốc gia Hà Nội (xếp hạng 386), Trường Đại học Duy Tân và Trường Đại học Tôn Đức Thắng (xếp hạng 401-450).
Theo Bảng xếp hạng Times Higher Education (THE): Ở lĩnh vực Kinh doanh và kinh tế, Việt Nam có hai đại diện là Trường Đại học Tôn Đức Thắng (xếp hạng 201-250), Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh (xếp hạng 601 ).
Video đang HOT
Lĩnh vực Khoa học Xã hội, Việt Nam có 3 đại diện là Trường Đại học Tôn Đức Thắng (xếp hạng 251-300), Đại học Quốc gia Hà Nội (xếp hạng 501-600) và Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh (xếp hạng 601 ).
Thiếu hụt đội ngũ giảng viên
Lãnh đạo Vụ Giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết, một số trường đại học hiện đang khó khăn trong việc bảo đảm đội ngũ giảng viên để duy trì ngành đào tạo theo quy định. Để phát triển các ngành mới đòi hỏi giảng viên phải cập nhật kiến thức mới và chứng minh cho các bên liên quan về năng lực thông qua các đề tài, công bố quốc tế liên quan đến ngành đào tạo mới.
Đồng thời, việc cạnh tranh các giảng viên giỏi giữa các cơ sở GDĐH cũng khiến cho việc duy trì ngành đào tạo và xác định chỉ tiêu tuyển sinh ở nhiều trường gặp khó khăn.
Bộ GD và ĐT cũng đã điều chỉnh các quy định về mở ngành đào tạo, danh mục thống kê ngành đào tạo theo hướng quản lý chất lượng, gắn liền với thực tiễn lĩnh vực nghiên cứu của ngành dự định mở và kinh nghiệm chuyên môn của giảng viên, tiến đến sự linh hoạt thay vì chỉ căn cứ theo tên ngành đào tạo ghi trên văn bằng của giảng viên.
Một trong những phương thức tăng cường quốc tế hóa GDĐH mà Bộ GD và ĐT đề ra là đẩy mạnh hợp tác với các cơ sở GDĐH quốc tế có uy tín thông qua việc thực hiện các chương trình liên kết đào tạo (LKĐT) với các trường đại học trên thế giới, chương trình đào tạo tiên tiến.
Tính đến tháng 12/2021, cả nước có 408 chương trình Liên kết đào tạo với nước ngoài (LKĐTVNN) đang hoạt động. Trong đó, các trường tự chủ (ĐHQG, ĐH vùng, thí tiểm tự chủ theo Nghị quyết số 77/NQ-CP, theo Luật số 34) phê duyệt tổng cộng 186 chương trình LKĐTVNN, trong đó có 124 chương trình ở trình độ đại học, 58 chương trình ở trình độ thạc sĩ và 04 chương trình ở trình độ tiến sĩ.
Các chương trình LKĐT với nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam theo quốc gia (Nguồn: Bộ GD&ĐT)
408 chương trình phân loại theo quốc gia chủ yếu vẫn là các chương trình LKĐT với các cơ sở GDĐH tại Vương quốc Anh (101 chương trình), Hoa Kỳ (59 chương trình), Cộng hòa Pháp (53 chương trình), Australia (37 chương trình) và Hàn Quốc (27 chương trình); các nước có nền GDĐH phát triển và các cơ sở GDĐH uy tín, xếp thứ hạng cao trên thế giới như New Zealand (16 chương trình), CHLB Đức (10 chương trình) và Vương quốc Bỉ (10 chương trình).
Các chương trình LKĐT với nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam theo nhóm ngành đào tạo (Nguồn: Bộ GD&ĐT)
Phân loại các chương trình LKĐTVNN theo nhóm ngành đào tạo, tỷ lệ các chương trình đào tạo trong nhóm ngành kinh tế và quản lý vẫn chiếm đa số với 64% (trong đó có 85/408 chương trình đào tạo ngành quản trị kinh doanh).
Các chương trình đào tạo các ngành trong nhóm ngành khoa học và công nghệ chiếm 25%; trong nhóm ngành khoa học xã hội và nhân văn chiếm 8% và các ngành khác (như Y khoa, Dược, Luật) chỉ chiếm 3%.
Các chương trình LKĐT với nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam chia theo trình độ đào tạo như sau:
Nảy sinh nhiều hạn chế
Tuy nhiên, Bộ Giáo dục và Đào tạo thừa nhận, hoạt động LKĐTVNN đang có nhiều hạn chế, cụ thể:
Thứ nhất, hạn chế trong việc lựa chọn cơ sở GDĐH đối tác nước ngoài; có 62,71% cơ sở GDĐH đối tác nước ngoài không được xếp hạng hoặc nằm ngoài danh sách 1.000 trường đại học trên thế giới (theo QS Ranking và THE năm 2021), 6,21% cơ sở xếp hạng 1.000 , 9,04% số cơ sở xếp hạng 501-1.000, 9,04% số cơ sở xếp hạng 301-500, 9,6% số cơ sở xếp hạng 100-299 (17 cơ sở).
Thứ hai, hạn chế trong chất lượng tuyển sinh đầu vào (năng lực ngoại ngữ, kết quả học bạ và thi THPT tương đối thấp).
Thứ ba, hạn chế về tác động lan tỏa: Hệ thống GDĐH của Việt Nam không thu được những tác động tích cực từ các chương trình LKĐTVNN, cụ thể các chương trình LKĐT không lan tỏa được chất lượng đào tạo cho các chương trình trong nước, không nâng cao được năng lực chuyên môn và ngoại ngữ cho đội ngũ giảng viên.
Thực tế này đã làm mất đi ý nghĩa và sứ mệnh của các chương trình LKĐTVNN, không được như các chương trình đào tạo tiên tiến trong giai đoạn 2008-2015.
Liên kết trường sư phạm với trường mầm non để nâng cao chất lượng đào tạo
Ngày 28/10 tại TPHCM đã diễn ra Hội thảo khoa học quốc tế liên kết trường sư phạm với trường mầm non rèn nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên.
Gắn lý luận với thực tiễn
Diễn văn khai mạc của Hiệu trưởng Trường Cao đẳng sư phạm Trung ương TPHCM, Nguyễn Nguyên Bình cho biết: Thực hành thực tập rèn luyện nghiệp vụ sư phạm là hoạt động giáo dục đặc thù của các trường cao đẳng, đại học có đào tạo ngành sư phạm nhằm hình thành, phát triển và rèn luyện phẩm chất, năng lực nhà giáo cho giáo sinh theo mục tiêu đào tạo đã đề ra.
Quá trình thực tập rèn luyện nghiệp vụ sư phạm giúp người học, cơ sở đào tạo đáp ứng theo nhu cầu xã hội với phương châm "Học đi đôi với hành, gắn lý thuyết với thực hành, lý luận với thực tiễn". Kết quả thực hành thực tập là một trong những điều kiện bắt buộc nhằm đánh giá khả năng và năng lực của người học, là cơ sở để các nhà tuyển dụng chọn lựa giáo viên mầm non tương lai; đồng thời cũng là tiêu chí chính đáp ứng nhu cầu xã hội.
Đối với quá trình GD-ĐT nói chung, thực hành nghề nghiệp là một trong những nội dung cốt lõi quyết định chất lượng đào tạo của một chương trình; đối với quá trình giáo dục và đào tạo nghề giáo viên nói riêng, cụ thể là nghề giáo viên mầm non, các cơ sở đào tạo - trường sư phạm luôn đặt công tác tổ chức thực hành rèn luyện kỹ năng sư phạm cho sinh viên ở vị trí quan trọng không thể thay thế.
TS Vũ Thanh Bình - Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học, Công nghệ, Môi trường - Bộ GD&ĐT đánh giá cao Trường Cao đẳng sư phạm Trung ương TPHCM đã có sáng kiến tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế được tổ chức. Đây là dịp để các nhà quản lý giáo dục, cơ sở đào tạo giáo viên mầm non cùng chia sẻ, thảo luận kinh nghiệm về những vấn đề xoay quanh mạng lưới liên kết giữa trường sư phạm với trường mầm non để tổ chức thực tập rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên ngành GDMN.
Hiệu trưởng Trường Cao đẳng sư phạm Trung ương TPHCM Nguyễn Nguyên Bình.
Theo đánh giá, các báo cáo tham luận tại Hội thảo hết sức đúng và trúng vấn đề, đó là bàn về các vấn đề liên kết các trường sư phạm để phát huy thế mạnh đào tạo giáo viên mầm non. Những tham luận tại hội thảo đại diện cho các địa bàn trường sư phạm khác nhau trên cả nước tập trung vào các nhóm nội dung chính thể hiện nhu cầu và sự cần thiết của việc liên kết trường sư phạm với trường mầm non để rèn nghiệp vụ cho sinh viên sư phạm mầm non.
Chia sẻ kinh nghiệm hay
Bên cạnh đó, nhóm cơ sở lý luận và thực trạng về xây dựng mô hình, mạng lưới liên kết giữa trường sư phạm với trường mầm non để tổ chức thực tập rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên ngành GDMN. Nội dung mang tính chất nền tảng, cơ bản đáp ứng được việc mô tả một phần cơ sở lý luận và thực trạng ở các địa phương khác nhau về xây dựng mô hình, mạng lưới liên kết giữa trường sư phạm với trường mầm non để tổ chức thực tập rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên ngành GDMN.
Nhóm những giải pháp và bài học kinh nghiệm trong xây dựng mạng lưới, mô hình liên kết giữa trường sư phạm với trường mầm non để tổ chức thực tập rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên ngành GDMN của các cơ sở đào tạo trong nước và trên thế giới. Là những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thực tập trong đào tạo giáo viên mầm non tại một số quốc gia trên thế giới, mô hình trong đào tạo giáo viên mầm non ở Đại học Quebec - Canada.
Tham luận tại Hội thảo của đại diện Trường Cao đẳng sư phạm Trung ương Hà Nội.
Đây là bức tranh khá sinh động và nhiều màu sắc và chi tiết hơn, có tác dụng gợi ý, bổ sung thêm các mô hình, mạng lưới liên kết đa dạng, thật sự đáp ứng quá trình tìm kiếm giải pháp, học tập kinh nghiệm về xây dựng mạng lưới, mô hình liên kết giữa trường sư phạm với trường mầm non để tổ chức thực tập rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên ngành GDMN.
Nhóm những góc nhìn, cách tiếp cận cụ thể góp phần trong việc xây dựng mạng lưới, mô hình liên kết giữa trường sư phạm với trường mầm non để tổ chức thực tập rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên ngành Giáo dục mầm non. Đây là góc nhìn theo quan điểm, phương pháp giáo dục mầm non theo STEAM, STEINER đến cách tiếp cận thông qua các học phần, giờ chơi ngoài trời, giờ ngủ của trẻ hoặc các trò chơi vận động.
Ngoài ra, nhóm nội dung này cũng ghi nhận các bài viết từ góc nhìn của một quan sát viên trường Đại học Bắc Colorado, những yêu cầu cần đạt với vai trò giáo viên sư phạm trưởng đoàn, giáo viên mầm non hướng dẫn thực tập và cách thức quản lý chương trình thực hành thực tập có áp dụng công nghệ thông tin theo xu hướng hiện nay.
Một trong những yếu tố đảm bảo chất lượng của quá trình thực hành thực tập là sợi dây liên kết giữa trường sư phạm và cơ sở GDMN nhằm rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên ngành GDMN. Xây dựng được mạng lưới liên kết giữa trường sư phạm và trường mầm non để tổ chức công tác thực hành thực tập có chất lượng, hiệu quả, linh hoạt cho sinh viên ngành GDMN rèn nghề sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên mầm non, bổ sung cho ngành GDMN lực lượng giáo viên có kỹ năng nghề cao, góp phần đáp ứng nhu cầu xã hội.
Đào tạo ngành sức khỏe: Không thể dễ dãi Việc 'chạy đua' mở ngành đào tạo, đặc biệt là xu hướng mở ngành đào tạo khối sức khỏe khiến chuyên gia lo lắng về chất lượng đội ngũ y bác sĩ khi hành nghề. Không nên có tư duy định kiến Như Đại Đoàn Kết Online phản ánh ở bài viết "Đề xuất không đào tạo từ xa với ngành sức khỏe,...