Lối ra nào cho sách giáo khoa Tiếng Việt 1 Cánh diều?
Theo thầy Cao Nguyên, Bộ Giáo dục nên dũng cảm cho dừng việc dạy sách Tiếng Việt 1 – Cánh Diều trên toàn quốc để rà soát, đánh giá, chỉnh sửa thật chu đáo.
Ngày 9/11/2020, Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh đã có công văn số 3723 về việc hướng dẫn sử dụng sách giáo khoa tiếng Việt lớp 1 đối với giáo viên.
Cụ thể, Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh hướng dẫn các trường một số nội dung trong việc dạy học sách Tiếng Việt 1 như sau.
Dạy học theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh
Thứ nhất , xác định chương trình là pháp lệnh, tiếp tục nghiên cứu để hiểu sâu sắc chương trình giáo dục phổng thông 2018 (lưu ý đọc mở rộng là một trong những yêu cầu mới của chương trình).
Thứ hai , linh hoạt trong xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình, đảm bảo phù hợp với điều kiện thực tiễn địa phương và học sinh.
Sử dụng hiệu quả các tiết ôn tập, thực hành, ôn luyện tiếng Việt để hỗ trợ học sinh gặp khó khăn, hỗ trợ dạy học phân hóa.
Thứ ba , tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học, nghiên cứu kỹ sách giáo khoa với tư cách là ngữ liệu dạy học để sử dụng hiệu quả, điều chỉnh khi cần thiết.
Sử dụng hiệu quả sách giáo khoa và ghi chép lại những nội dung cần điều chỉnh ở sách giáo khoa nếu có.
Nghiên cứu sách giáo khoa tiếng Việt thuộc các bộ sách để làm phong phú ngữ liệu dạy học.
Thứ tư , xác định mục tiêu bài học theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh bên cạnh những phẩm chất và năng lực chung, giáo viên cần chú trọng đến việc hình thành năng lực ngôn ngữ (đọc, viết, nói và nghe) cho học sinh bằng nhiều hình thức khác nhau.
Thứ năm , thiết kế bài học thành 4 hoạt động chính: khởi động, khám phá, luyện tập, vận dụng. Chú trọng đổi mới phương pháp, hình thức, tổ chức các hoạt động dạy học, sử dụng hiệu quả phương tiện, thiết bị dạy học. Chú trọng dạy học tích hợp và dạy học phân hóa.
Khuyến khích giáo viên lưu giữ hồ sơ dạy học môn tiếng Việt và ghi nhật ký dạy học làm minh chứng cho quá trình đánh giá.
(Ảnh minh họa: Thùy Linh)
Thứ sáu , tiếp tục đổi mới đánh giá học sinh theo Thông tư 27/2020/TT-BGDĐT ngày 4/9/2020 Ban hành Quyết định đánh giá học sinh tiểu học với những phương pháp, kĩ thuật đánh giá đa dạng.
Thứ bảy , chia sẻ thông tin đến phụ huynh bằng nhiều hình thức khác nhau về những nội dung liên quan đến đổi mới chương trình, sách giáo khoa cũng như mức độ đáp ứng của học sinh để phụ huynh nhận thức đúng và phối hợp tốt với nhà trường và giáo viên trong công tác giáo dục học sinh.
Hướng giải quyết cho sách giáo khoa Tiếng Việt 1 Cánh Diều
Thời gian qua, một số quyển sách Tiếng Việt 1 khiến dư luận bức xúc vì nội dung sai lạc, quá tải khiến học sinh lớp 1 rất gặp nhiều trở ngại trong việc học, đặc biệt là sách Tiếng Việt 1 – Cánh Diều.
Tiếp thu ý kiến, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã yêu cầu Hội đồng thẩm định tổ chức rà soát, chỉnh sửa sách Tiếng Việt 1 – Cánh Diều cho phù hợp. Phương án chỉnh sửa, hiệu đính phải báo cáo Bộ trưởng xem xét, phê duyệt trước ngày 15/11/2020.
Trong lúc chờ chỉnh sửa sách, ngành giáo dục một số tỉnh thành đã chỉ đạo nhà trường thay thế một số ngữ liệu ở sách Tiếng Việt 1 – Cánh Diều sao cho học sinh dễ tiếp thu nhất.
Tuy nhiên, đây cũng chỉ là cách làm mang tính “chữa cháy”, bởi những hạt sạn ở cuốn sách này theo người viết mang tính hệ thống – đã được nhiều tác giả phân tích, phản ánh trên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam.
Để tạo lối ra cho quyển sách Tiếng Việt 1 – Cánh Diều, đồng thời không lặp lại vết xe đỗ cho những bộ sách khác, chúng tôi xin có một số ý kiến như sau.
Thứ nhất , cần rà soát sách Tiếng Việt 1 – Cánh Diều (kể cả một số quyển sách Tiếng Việt 1 khác đã được dư luận và báo chí phản ánh) một cách bài bản từ: từ, ngữ, câu, ngữ liệu văn bản, nội dung văn bản cho đến việc phân phối thời lượng tiết học.
Dành nhiều thời gian đọc và nghiên cứu sách Tiếng Việt 1 – Cánh Diều, chúng tôi nhận thấy, nhiều từ, ngữ là phương ngữ, không rõ nghĩa, thậm chí sai lạc ngữ nghĩa là điều không thể chấp nhận được.
Video đang HOT
Ví như, văn bản “Cô bé chăm chỉ” (trang 71) dùng từ sai lạc về nghĩa: “Bé Chi chăm chỉ lắm. Bé đi khắp nhà. Khi thì bé mở vở của chị, ê a. Khi thì bé đi xe đạp. Khi thì bé khám cho chó Lu. Lu “gù gù” có vẻ thú vị lắm.”
Cách dùng từ “chăm chỉ” để miêu tả bé Lê đi khắp nhà, mở vở của chị, đi xe đạp, khám chó Lu là chưa chính xác. Bởi nghĩa của từ “chăm chỉ” là cố gắng làm một việc gì đó để thu được kết quả tốt. Bé Lê chỉ đơn thuần chơi đùa những trò của trẻ con mà thôi.
Chưa kể, chó thì không kêu “gù gù” bao giờ (đây là âm thanh của tiếng chim bồ câu). Người ta hay nói, chó gầm gừ, chó sủa gâu gâu, chó kêu ăng ẳng (khi bị đau), chó tru (khi có bất ổn trong cơ thể)…
Thứ hai , cần mở rộng thành phần của hội đồng thẩm định, đó là đội ngũ nhà giáo, nhà khoa học chuyên ngành có liên quan, nhà ngôn ngữ học, nhà tâm lí học và chuyên gia văn hóa thì mới đánh giá sách chi tiết, toàn diện.
Chẳng hạn như, sách Tiếng Việt 1 – Cánh Diều (tập 1) có một số văn bản viết về ước mơ, giấc mơ kì lạ – không phù hợp với tâm lí lứa tuổi của học sinh lớp 1, là do thiếu chuyên gia tâm lí học thẩm định.
Cụ thể, bài tập đọc “Gà nhí nằm mơ” (trang 83) là một minh chứng : “Trưa hè, gà nhí nằm mơ bị quạ cắp đi. Gà nhí sợ quá. Nó “chiêm chiếp” ầm ĩ. Gà mẹ khe khẽ ru. Mẹ ru êm quá. Gà nhí ngủ thiếp đi.”
Chúng tôi hiểu rằng, tác giả sách muốn dạy học sinh về tình mẫu tử. Tuy nhiên, việc cho đứa con mơ một giấc mơ khủng khiếp “chiêm chiếp” ầm ĩ để nói về tình mẹ thì liệu có phù hợp không?
Hoặc truyện “Quạ và chó” (Truyện ngụ ngôn Ê-dốp – Thành Vân, trang 99) nguyên tác là “Con quạ và con cáo” – La Fontaine kể lại ngụ ngôn Ê-dốp, sử dụng hình tượng con chó không đúng với cách tri nhận của người Việt, do người viết thiếu nền tảng văn hóa vững chắc.
Nguyên văn truyện này như sau: “Quạ đỗ ở mỏm đá, miệng ngậm khổ mỡ to. Chó nghĩ kế cuỗm khổ mỡ. Nó giả vờ: – A, ca sĩ quạ! Quạ mà ca thì mê li lắm. Quạ há to mỏ: Quà! Quà! Thế là… “bộp”, khổ mỡ của quạ đã nằm kề mõm chó. Chó tợp mỡ tha đi.”
Con cáo trong tri nhận của người Việt và nhiều dân tộc khác trên thế giới là sự gian ác. Người Việt có câu Cáo mượn oai hùm để chỉ hạng người luôn mượn thế kẻ mạnh, nấp dưới ô quyền lực đi hù dọa, lòe bịp người khác hoặc lấy đó làm lá chắn để thỏa sức lộng hành.
Tương tự, người Anh cũng nói A fox in lamb’s skin (cáo đội lốt cừu); As cunning as a fox; as smart as a fox (ranh như cáo) …
Việc thay hình tượng “cáo” bằng “chó” là rất khập khiễng, bởi theo quan niệm của người Việt, loài chó xuất hiện với tất cả những gì xấu xa khi dùng để biểu thị tính cách của con người – ngoại trừ sự gian ác.
Bên cạnh những cái nhìn tiêu cực, loài chó còn xuất hiện với nhiều điểm tích cực. Không chỉ là loài vật xuất hiện gần gũi với con người, chó còn là loài được con người quý mến ở sự trung thành.
Như thế, con chó trong cảm thức của nhân loại không thể thủ đoạn, ranh ma xảo quyệt như hình tượng “chó” ở văn bản “Quạ và chó”.
Thứ ba , sau khi chỉnh sửa sách Tiếng Việt 1 – Cánh Diều thì cần lập hội đồng đánh giá một cách toàn diện xem sách có thể sử dụng được nữa hay không.
Nếu việc chỉnh sửa đã ổn thì cần dạy thử nghiệm ở các địa bàn khác nhau như thành thị, nông thôn, miền núi ít nhất là một năm – mục đích là để xem mặt bằng chung học sinh lớp 1 tiếp thu bài học thế nào so với sách cũ.
Và cần thêm khoảng một năm nữa để hoàn thiện nội dung sách sau khi đã được góp ý bởi các nhà khoa học chuyên môn có uy tín thì Bộ mới phê duyệt sách, cho xuất bản đại trà.
Theo ý kiến cá nhân tôi, Bộ nên dũng cảm cho dừng việc dạy sách sách Tiếng Việt 1 – Cánh Diều trên toàn quốc để rà soát, đánh giá, chỉnh sửa thật chu đáo.
Học sinh sẽ sử dụng lại sách Tiếng Việt 1 của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam như những năm trước để sớm ổn định việc học và cũng góp phần giảm bớt gánh nặng không đáng có cho giáo viên tiểu học.
Hãy vì con trẻ – chỉ mới 6 tuổi! Mong mỏi lắm thay!
Tài liệu tham khảo:
[1] //hcm.edu.vn/thong-bao/ve-mot-so-huong-dan-sau-chuyen-de-day-hoc-tieng-viet-lop-1-theo-huong-phat-trie-c39846-65662.aspx
[2] //www.thesaigontimes.vn/310135/bo-giao-duc-ra-thoi-han-cho-phuong-an-chinh-sua-bo-sach-canh-dieu.html
3 giáo sư hãy bình tĩnh lắng nghe dư luận, đừng cố bao biện cho những hạt sạn
Điểm chung trong lời phản biện của 3 người thầy nổi tiếng là thừa nhận "sách Cánh Diều" có nhiều "sạn" và tìm cách minh oan cho những "hạt sạn" đó.
Trước sự phản ứng mạnh mẽ của báo chí và dư luận về bộ sách lớp 1 của nhóm Cánh Diều (sau đây gọi tắt là "sách Cánh Diều") hiện đang được nhiều địa phương đưa vào sử dụng cho năm học 2020-2021, các vị Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết, Tổng chủ biên [1], Trần Đình Sử, Chủ tịch Hội đồng thẩm định[2] và Mai Ngọc Chừ, Phó Chủ tịch Hội đồng thẩm định [3] đã đăng đàn trả lời công luận.
Theo Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết, các bài đọc đều đã được nhóm biên soạn cân nhắc, viết đi viết lại. "Chúng tôi đã làm rất kỹ", Giáo sư khẳng định.
Giáo sư Thuyết cho rằng, những người góp ý, mắng chửi, dè bỉu nội dung sách không phải là người tử tế, là xuyên tạc, là soi mói, là bóp méo các nội dung sách của ông và đồng sự, và đó là hành động thiếu lành mạnh và nguy hiểm của cạnh tranh.
Giáo sư Trần Đình Sử cũng khẳng định, không đời nào hội đồng thẩm định lại để lọt những nội dung như thế (những lỗi mà báo chí và mạng xã hội đã chỉ ra - người viết), tránh những suy diễn không hay.
"Một tư liệu viết sai hoặc một cái tên có gờn gợn, chúng tôi đã phải hỏi ngay, hoặc thậm chí tra cứu,...", Giáo sư Sử nói.
Giáo sư Mai Ngọc Chừ cho biết thêm: Những lỗi, sạn (chứ không sai - người viết chú thêm) trong sách giáo khoa Tiếng Việt 1 của nhóm Cánh Diều mà báo chí, dư luận đưa ra thì Hội đồng thẩm định đã có ý kiến khuyến cáo nhóm tác giả phải sửa, nhưng do nhóm tác giả không chịu sửa nên nó mới như thế. Theo Giáo sư Chừ, trách nhiệm này thuộc nhóm tác giả.
Điểm chung trong lời phản biện của 3 người thầy nổi tiếng là thừa nhận "sách Cánh Diều" có nhiều "sạn" và tìm cách minh oan cho những "hạt sạn" đó.
Nhưng cái lý của các thầy thiếu sức thuyết phục, dù Giáo sư Thuyết là người rất nổi tiếng bấy lâu nay về tài phản biện những vấn đề quốc kế dân sinh mỗi lần thầy đăng đàn Quốc hội trước đây.
Bộ sách Cánh Diều (Ảnh: sachcanhdieu.com)
Xin các thầy thực tâm xem xét lại bộ sách Cánh Diều, những lỗi sai, sạn mà dư luận xã hội đã chỉ ra hoàn toàn chính xác.
Cái sai ở đây không phải là vì áp lực học âm, học vần mà phải chọn những từ như các thầy đã giải thích, cũng không phải vì học sinh lớp 1 khó tiếp thu ca dao, tục ngữ hay kho tàng văn học Việt nghèo tới mức buộc các nhà biên soạn phải xây dựng bài đọc bằng cách "phỏng theo" tác phẩm đông tây kim cổ.
Vấn đề ở đây là không nên sa vào tiểu tiết khiến cuộc tranh luận giữa đôi bên khó đi đến sự đồng thuận vì một mục tiêu cao đẹp: "Tất cả vì tương lai con em chúng ta".
Vậy bộ sách lớp 1 của nhóm Cánh Diều có gì đáng bàn?
Ngữ liệu dạy học thiếu chọn lọc, tinh tế
Các thầy biện minh, sử dụng từ "nhá", nhá cỏ, nhá dưa chứ không sử dụng từ "nhai" trong bài tập đọc "Thỏ thua rùa" là vì đến thời điểm có bài tập đọc này, học sinh chưa học đến vần "ai", nên tác giả sách sử dụng từ "nhá".
Hoặc ở những bài đầu, ý nghĩa phủ định được thể hiện bằng từ "chả" ("chả sợ thi", tr.59) thay cho các từ "không" hoặc "chẳng" vì đến giai đoạn này, học sinh chưa được học các vần "ông", "ăng".
Xin hỏi các thầy, chả nhẽ trong kho tàng đồ sộ văn học dân gian, văn học viết Việt Nam cũng như trong kho từ vựng của tiếng Việt lại nghèo đến mức không tìm ra được ngữ liệu nào có từ chứa âm "a" hay ho hơn những từ "nhá", "chả" tuy xuất hiện trong từ điển nhưng tần số sử dụng thuộc loại thấp?
Các thầy cho rằng, những từ như "nhá" "chả", "gà nhí", "gà nhép", "hí hóp", "tợp", "chén",... có mặt trong từ điển, được lấy làm ngữ liệu dạy học là "hoàn toàn phù hợp, không sai".
Nhưng các thầy nghĩ lại xem, học sinh lớp một đọc chưa sõi, viết chưa rành thì áp đặt, nhồi nhét những từ như thế vào đầu óc còn non nớt của các cháu liệu đã nên chưa?
Cách lý giải của các thầy về những bài tập đọc được phóng tác từ các tác phẩm văn học nước ngoài cũng không mấy thuyết phục. Tôi không bàn về nội dung. Việc chia bài học ra làm 2 phần (bị ngăn cách bởi một bài học khác) là không khoa học, không đảm bảo tính liên tục, mạch lạc trong việc tiếp nhận của học trò.
Kết thúc bài "Hai con ngựa" [1], là câu nói của ngựa tía: "Chủ mà giục em làm, em sẽ bỏ trốn". Và ngựa ô lẩm bẩm: "Có lý lắm". Xin hỏi quý thầy, kết thúc như thế, thầy cô sẽ rút ra bài học giáo dục gì đây cho tâm hồn non nớt của trẻ thơ?
Tìm hiểu kỹ, có thể dễ dàng nhận thấy, rất nhiều ngữ liệu là những từ ngữ mang tính phổ quát thấp, thuộc trường nghĩa tiêu cực, gọi tên những sự vật, hiện tượng xa lạ; những câu cộc lốc, cụt ngủn; những đoạn văn vô hồn mang tính liệt kê, đơn điệu, trùng lặp về mẫu câu, kiểu như "Cỗ có giò, có gà, có cả giá đỗ" (tr.35); "Hồ có cá mè, ba ba. Nhà có na, nho, khế" (tr. 39); "Nhà bà có gà, có nghé... Gà có ngô... Nhé có cỏ, có mía" (tr. 43); "Chị Trà cho bé Chi đi nhà trẻ. Qua chợ, chị chỉ cho bé cá trê, cá mè,..." (tr. 55),...
Lạm dụng ngụ ngôn phương Tây, ngoảnh mặt với văn hóa, văn học dân tộc
Trên trang cá nhân nhà văn Nguyễn Quang Vinh cho biết, theo một thống kê của độc giả, "sách Cánh Diều" có 46 bài/82 bài đọc là các văn bản sao phỏng từ các truyện ngụ ngôn nước ngoài, còn lại là các bài văn xuôi tiếng Việt, không có tác giả hoặc loại tác giả "vô danh".
Ca dao tục ngữ không có chỗ trong cả hai tập sách vì Giáo sư Thuyết cho rằng "học sinh độ tuổi lớp 1 khó tiếp thu nội dung của ca dao, tục ngữ".[4]
Vì thế trong cả 2 tập của bộ sách, rất hiếm những ngữ liệu dạy học phản ánh nét đẹp tâm hồn, đạo lý, tình cảm của con người Việt Nam cũng như những phong cảnh quê hương, đất nước vốn rất gần gũi, thân quen trong đời sống dân tộc.
Hồn dân tộc, cốt lõi làm nên sự trường tồn của đất nước hầu như vắng bóng trong "sách Cánh Diều".
Nội dung bài học khô khan, nhảm nhí hạn chế cảm hứng học tập và giáo dục đạo đức lối sống cho con trẻ
Dường như các ngữ liệu (từ, cụm từ, câu, đoạn, bài) được biên tập một cách cẩu thả, tắc trách. Hội đồng nghiệm thu thấy sai, thấy sạn (như thừa nhận của Giáo sư Chừ) nhưng lại vô trách nhiệm, không kiên quyết xử lý đúng với chức trách, quyền hạn của Hội đồng.
Các bài phóng tác từ nguồn bên ngoài theo kiểu xào xáo, chia tách; nội dung mang tính áp đặt, không phù hợp với tâm lý, tình cảm lứa tuổi học sinh. Nhiều bài đọc vô cảm, nhảm nhí, dung tục; tính thẩm mỹ, tính giáo dục, tính nhân văn thấp kém.
Giáo sư Thuyết nói một nhà văn lớn như L. Tolstoy không bao giờ viết một truyện tầm phào hoặc phản giáo dục. Đúng! Chỉ những người biên soạn "phỏng theo" văn hào mới "tầm phào hoặc phản giáo dục".
Sự tầm phào, nhảm nhí thể hiện ở nhiều ngữ liệu tập đọc như "Bi nghỉ hè", "Chó xù" (tr.57), "Ví dụ" (tr.89); "Họp lớp", "Cò và quạ",...
Thống kê cho thấy, 18 bài tập đọc có từ "sợ" và nói đến nỗi sợ hãi, chết chóc. Cụ thể tập 1: Sẻ, quạ (tr.59), Lỡ tí ti mà (tr.53), Chó xù (tr.57), Thỏ thua rùa (tr.59), Bé Lê (tr.73), Gà nhí nằm mơ (tr.83), Rùa nhí tìm nhà (tr.91), Cò và quạ (tr. 95), Tóm cổ kẻ trộm (tr.105), Làm mứt (tr. 131), Chuột út (tr.133,135), Cá măng lạc mẹ (tr.141), Bỏ nghề (tr.145); tập 2: Sói và dê (tr.15), Hươu, cừu, khướu và sói (tr.35), Lợn rừng và voi (tr. 39), Ai can đảm (tr.65), Ngựa rằn nhanh trí (tr.79).
"Trẻ em như búp trên cành". Sách giáo khoa nhất là lớp 1 phải thể hiện được tư tưởng chủ đạo nuôi dưỡng "búp trên cành" thành quả ngọt mai sau.
Thông qua ngữ liệu dạy học phải làm cho trẻ lễ phép, ngoan ngoãn, vâng lời cha mẹ, hòa thuận, yêu thương, tương trợ giúp đỡ bạn bè chứ không phải là dạy lối ăn nói cụt ngủn, vô cảm; dạy cách đối phó, láu tôm, láu cá, thủ đoạn với bạn bè...
"Tác giả sách giáo khoa không hình dung được sách mình đào tạo con người nào!"
Đó là nhận xét của Tiến sĩ Giáp Văn Dương, Chủ tịch Hội đồng giáo dục Time School[5]
Những gì chúng tôi đã trình bày ở trên minh chứng cho điều này. Đấy là điều khiến dư luận lo ngại nhất.
"Khi đã thiếu triết lý giáo dục dẫn dắt, tự phát và bị giới hạn bởi quá khứ như thế, những gì được viết ra trong sách giáo khoa sẽ là những gì thuộc về tiềm thức và trải nghiệm tự nhiên của chính các tác giả, những người đã rất cũ, đã thuộc về quá khứ, chứ không phải những gì dành cho các thế hệ tương lai, thuộc về một thời đại hoàn toàn mới", Tiến sĩ Giáp Văn Dương nhận định. (xem thêm tài liệu đã dẫn [4])
Lời kết
Viết sách giáo khoa nói chung là khó, viết sách cho bậc tiểu học, đặc biệt là lớp đầu cấp càng khó. Nó đòi hỏi kiến thức phải chuẩn, tinh tế, phù hợp với tâm lý lứa tuổi.
Một ngữ liệu đưa vào trang sách để dạy trẻ, dù chỉ một từ cũng phải cân nhắc kỹ để làm sao đạt được mục đích không chỉ dạy trẻ biết đọc biết viết mà còn phải biết hướng tới chân thiện mỹ - cái gốc của đạo lý làm người.
Tiếc thay, những điều "muôn năm cũ" ấy, bộ sách Cánh Diều vẫn chưa đáp ứng được.
Đừng đặt lên vai con trẻ gánh nặng của người lớn, như lý giải của Giáo sư Thuyết về bài đọc "Cua, cò và đàn cá": "Bây giờ người xấu nhiều, dạy trẻ con phải cảnh giác không thừa".
Tài liệu tham khảo:
[1]. https://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/goc-phu-huynh/sgk-tieng-viet-1-bi-che-chu-bien-len-tieng-680054.html#inner-article
[2]. https://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/chu-tich-hoi-dong-tham-dinh-sach-tieng-viet-1-chuyen-bon-cai-lan-la-bia-dat-680228.html
[3]. http://vov1.vov.vn/dong-chay-su-kien-nhip-song/tranh-cai-sach-giao-khoa-tieng-viet-lop-1-va-nhung-dieu-can-lam-ro-12102020-c195-64307.aspx?fbclid=IwAR3Yjo2gwN_VcX7p55Nt_yNVbHV84fl_T67wetITN_TABn9BHq2jAPvbmm0
[4]. https://nld.com.vn/giao-duc-khoa-hoc/gs-nguyen-minh-thuyet-ly-giai-vi-sao-khong-dung-ca-dao-tuc-ngu-viet-nam-trong-sgk-tieng-viet-1-20201012170125705.htm
[5]. https://nld.com.vn/trich-dan-nong/tac-gia-sgk-khong-hinh-dung-duoc-sach-minh-dao-tao-con-nguoi-nao-20201010140509825.htm
Chưa nhận được văn bản, giáo viên chỗ tôi vẫn dạy theo Tiếng Việt 1 Cánh diều Không nên trao quyền cho thầy cô thay đổi ngữ liệu, sẽ tạo cơ hội để sách giáo khoa biên soạn và thẩm định ẩu (họ sẽ có cớ đá quả bóng trách nhiệm qua giáo viên). Ngay tại thời điểm này 13/11, học sinh các trường tiểu học trong cả nước đã bước sang tuần học thứ 10 và còn khoảng 5...