Lời khuyên của giáo viên trường chuyên từ đề tham khảo môn Lịch sử
Phân tích đề thi tham khảo môn Lịch sử k ỳ thi THPT quốc gia 2018, giáo viên tổ Lịch sử Trường THPT Chuyên Hùng Vương (Phú Thọ) kinh nghiệm giúp giáo viên, học sinh dạy học, ôn tập tốt môn học này.
ảnh minh họa
Đề thi phân hóa cao
Xét về phạm vi kiến thức theo khối lớp, đề thi tham khảo môn Lịch sử gồm 8 câu hỏi kiến thức của khối 11 (câu 10, 11, 12, 18, 19, 20, 27, 28); kiến thức của khối 12 gồm 32 câu còn lại.
Xét về phạm vi kiến thức theo nội dung: Câu hỏi kiến thức lịch sử thế giới gồm 12 câu (1, 2, 3, 10, 13, 18, 21, 22, 29, 30, 31, 32) và câu hỏi kiến thức lịch sử Việt Nam gồm 28 câu còn lại. Như vậy tỉ lệ số lượng câu hỏi lịch sử thế giới chiếm 30%, lịch sử Việt Nam chiếm 70% là phù hợp.
Nội dung các câu hỏi trong đề thi tham khảo môn Lịch sử đều nằm trong chương trình THPT lớp 11 và 12, không có nội dung câu hỏi nào nằm ở phần giảm tải.
Mức độ khó và phân hóa học sinh của đề thi cao. Cụ thể, từ câu 1 đến câu 19 khá dễ, học sinh chỉ cần đọc sách giáo khoa và nắm chắc kiến thức cơ bản là làm được.
Từ câu 20 trở đi mức độ phân hóa cao đòi hỏi học sinh không chỉ thuộc kiến thức mà còn phải hiểu sâu, hiểu bản chất của sự kiện; đồng thời biết liên hệ, so sánh sự kiện để làm được.
Tuy nhiên, từ câu 20 trở đi chưa thể hiện rõ sự tăng dần mức độ khó. Trong khi các câu 22, 25, 34, 36 không quá khó thì các câu 23, 24, 27, 33, 39 lại rất khó.
Học sinh cần đọc kĩ từng đáp án, tránh vội vàng lựa chọn. Các đáp án nhiễu đưa ra bằng cách diễn đạt cửa người ra đề sẽ có nhiều điểm tương đồng với đáp án đúng. Vì vậy cần đọc kĩ từng đáp án, trên cơ sở chắc kiến thức để phát hiện điểm chưa đúng trong đáp án nhiễu.
Video đang HOT
Tập dần cách tư duy, tránh “sốc” khi gặp đề khó
cách ôn tập tốt cho học sinh trong dạng đề thi này, các thầy cô tổ Lịch sử Trường THPT chuyên Hùng Vương lưu ý: Học sinh cần chăm chỉ đọc sách giáo khoa, tích lũy kiến thức ngay từ đầu, nắm thật vững kiến thức trong sách giáo khoa phần chữ to, vì trong đề tham khảo có tới hơn 10 câu hỏi là trích nguyên trong sách giáo khoa.
Sau khi học thuộc kiến thức cơ bản, học sinh cần tích cực ôn luyện, chăm chỉ làm câu hỏi trắc nghiệm sau mỗi bài, tích cực làm đề trắc nghiệm tổng hợp để quen dần với cách thức thi.
Học sinh không chỉ làm đề trắc nghiệm trên lớp mà cũng cần tham gia các nhóm học tập, ôn luyện trên mạng để có điều kiện làm quen nhiều hơn với các câu hỏi khó, lạ để tập dần cách tư duy, tránh việc “sốc” khi gặp đề khó.
Để làm bài thi đạt kết quả như ý, học sinh nên đọc kĩ phần nội dung câu hỏi, câu dẫn bởi trong đó đã có những dữ kiện gợi ý để giúp các em chọn được đáp án đúng.
Cần gạch chân những từ khóa trong phần câu hỏi. Từ khóa trong câu hỏi là những từ thể hiện đối tượng mà câu hỏi hướng tới, rồi những từ thể hiện phạm vi không gian, thời gian của đối tượng được hỏi.
Đối tượng ở đây có thể là một đối tượng lớn, sự kiện lớn (cách mạng tháng Tám, chiến dịch Hồ Chí Minh,…) hoặc cũng có thể chỉ là một lĩnh vực, một khía cạnh của đối tượng (đặc điểm của cách mạng tháng Tám, nghệ thuật chỉ đạo của chiến dịch Hồ Chí Minh,…).
Học sinh cũng cần đọc kĩ từng đáp án, tránh vội vàng lựa chọn. Các đáp án nhiễu đưa ra bằng cách diễn đạt cửa người ra đề sẽ có nhiều điểm tương đồng với đáp án đúng. Vì vậy cần đọc kĩ từng đáp án, trên cơ sở chắc kiến thức để phát hiện điểm chưa đúng trong đáp án nhiễu.
Đặc biệt, trong những đáp án có 2 vế, được ngăn cách bằng từ “và” hoặc dấu “,” hoặc “;” thì thường sẽ có một vế đúng và một vế không đúng. Cần đọc kĩ đáp án, tránh đọc lướt để không bị đánh lừa.
Theo Giaoducthoidai.vn
Các chủ đề môn học Vật lý hấp dẫn học sinh
TS Cao Tiến Khoa - Giảng viên Khoa Vật lý, Trường ĐH Thái Nguyên, phân tích và đánh giá về bản dự thảo môn học Vật lý ở cấp THPT trong Chương trình giáo dục phổ thông mới mà Bộ GD&ĐT vừa công bố.
ảnh minh họa
Chuyển từ tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực
Thưa ông, nhìn tổng thể dự thảo CT môn học Vật lý bậc THPT có những thay đổi, được giảm tải như thế nào so với môn học hiện hành? Chương trình có tính kế thừa hai môn học trước của môn Khoa học (tiểu học) và Khoa học tự nhiên (THCS) không?
Sự thay đổi ở đây chính là Chương trình đã chuyển từ tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực. Nghĩa là học sinh không chỉ biết kiến thức mà phải hình thành được kỹ năng, phát triển được năng lực. Chương trình không chỉ là kế thừa mà nó được thiết kế xuyên suốt từ tiểu học đến THPT, thông qua các môn học: Tự nhiên và Xã hội (lớp 1, lớp 2 và lớp 3); Khoa học (lớp 4 và lớp 5); Khoa học tự nhiên (THCS); Vật lý (THPT).
Về việc có giảm tải hay không trong CTGDPT mới, có thể đánh giá trên một số khía cạnh sau đây: Cách thiết kế CTGDPT tổng thể đã là một yếu tố góp phần làm giảm tải chương trình môn Vật lý. Trong chương trình mới, không phải tất cả học sinh đều học Vật lý mà chỉ có những học sinh có thiên hướng vật lý, kỹ thuật hoặc công nghệ mới lựa chọn.
Tiếp đó, việc giảm tải chương trình được thực hiện không phải giảm kiến thức một cách cơ học mà là do cách tiếp cận kiến thức. Nếu cách tiếp cận mà thể hiện được sự chú trọng vào bản chất, ý nghĩa vật lý của các đối tượng, đề cao tính thực tiễn, tránh khuynh hướng thiên về toán học thì không chỉ làm giảm tải chương trình mà còn hấp dẫn người học. Các yêu cầu cần đạt của từng đơn vị kiến thức được trình bày trong dự thảo là căn cứ để biên soạn sách giáo khoa cho học sinh. Các tác giả sách giáo khoa phải tìm con đường trình bày kiến thức sao cho không sử dụng nặng nề về toán.
Về thời lượng chương trình môn học "các nội dung giáo dục cốt lõi có thời lượng 70 tiết/năm học, những học sinh có định hướng nghề nghiệp cần vận dụng nhiều tri thức vật lý được học thêm 35 tiết chuyên đề/năm học"; theo tôi đánh giá thời lượng như vậy là chấp nhận được, mặc dù còn ít so với thời lượng chương trình môn học này ở các nước tiên tiến trên thế giới.
Các chủ đề sắp xếp từ trực quan đến trừu tượng
Quan điểm xây dựng chương trình môn học được đưa ra là: "...Giúp học sinh phát triển tư duy khoa học dưới góc độ vật lý, khơi gợi sự ham thích ở học sinh, tăng cường khả năng vận dụng tri thức vào thực tiễn..", vậy thực tế trong dự thảo CT môn học, các chủ đề đã được thiết kế, sắp xếp đúng theo mục tiêu này chưa, thưa ông?
Chương trình đã sắp xếp các chủ đề theo quan điểm từ trực quan đến trừu tượng, từ đơn giản đến phức tạp, từ hệ được xem như một hạt đến nhiều hạt.
Cách sắp xếp như vậy cùng với cách tiếp cận không nặng về toán học, chú ý đến bản chất vật lý thì tự thân nó sẽ giúp học sinh phát triển tư duy khoa học dưới góc độ vật lý, khơi gợi sự ham thích ở học sinh.
Dự thảo môn học có một số sắp xếp ngược với chương trình hiện hành như đưa phần Sóng trước phần Dao động là một ví dụ cho quan điểm xây dựng chương trình. Sóng nước (là sóng cơ) rất gần gũi và tác động trực tiếp lên các giác quan của con người.
Học sinh tiếp cận hiện tượng sóng từ các trải nghiệm để hình thành các khái niệm. Ví dụ khái niệm Tốc độ truyền sóng được học sinh hiểu là tốc độ dịch chuyển của đỉnh sóng (Ngọn sóng, con sóng) chứ không phải cách tiếp cận là Tốc độ lan truyền trạng thái (pha) dao động như hiện hành (cần học phần Dao động trước Sóng).
Ở cấp THPT, các đặc điểm của Sóng cơ (có thể quan sát trực tiếp được) cũng được áp dụng mở rộng áp dụng cho Sóng điện từ không quan sát trực tiếp được. Chương trình đã sắp xếp chung các hiện tượng Sóng ở lớp 11 trong đó có cả Sóng điện từ (với nội dung thang sóng điện từ). Đây là điểm mới của chương trình.
Có thể nói rằng, chương trình đã chú ý đến những vấn đề mang tính ứng dụng cao và tiêu biểu như chụp X quang, chụp cắt lớp, hay kĩ thuật điện tử, thông tin và truyền thông, các hiện tượng thiên văn, vấn đề bảo vệ môi trường. Những vấn đề này đều là những vấn đề mà các tác giả sách giáo khoa và các giáo viên có điều kiện để làm cho các bài viết trong sách và bài giảng trên lớp thêm sinh động.
Theo ông, từ thực tế hiện nay các trường phổ thông có gặp khó khăn gì không khi đưa CT - SGK mới vào giảng dạy, có đủ phương tiện để học sinh thí nghiệm, thực hành hay không?
TS Cao Tiến Khoa
Các phòng thí nghiệm ở trường phổ thông được Nhà nước trang bị hiện tại vẫn được duy trì, bảo dưỡng, sử dụng trong dạy học, hàng năm vẫn phải bổ sung các vật tư tiêu hao. Nếu thiết bị sẵn có còn hoạt động tốt thì đáp ứng được yêu cầu về dạy học Vật lý trong chương trình môn học mới.
Tuy nhiên qua khảo sát một số tỉnh phía Bắc, các trang thiết bị dạy học môn Vật lý, Hoá học, Sinh học còn sử dụng được không nhiều. Trong thời gian tới Bộ cần nghiên cứu xây dựng danh mục thiết bị tối thiểu để trang bị cho các trường phổ thông theo yêu cầu của chương trình. Ngoài nguồn thiết bị thí nghiệm được Bộ trang bị, các trường phổ thông cần có liên hệ chặt chẽ với các trường đại học, đặc biệt là các trường ĐH Sư phạm để có thể được sử dụng hệ thống trang thiết bị thí nghiệm đáp ứng các yêu cầu của giáo dục theo định hướng phát triển năng lực của học sinh.
Dạy học tiếp cận năng lực đối với các môn học thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên như Lý, Hoá, Sinh, giáo viên và học sinh hoàn toàn có thể sử dụng các phương tiện sẵn có ở trong tự nhiên, đời sống, thiết bị kĩ thuật... thậm chí tự thiết kế, xây dựng thiết bị thí nghiệm theo các dự án do học sinh đề xuất, giáo viên hướng dẫn, định hướng. Đây chính là hướng đi mà các nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore... và các nước phát triển như Anh, Úc, Mỹ... đã triển khai thực hiện theo định hướng giáo dục STEM.
Theo Giaoducthoidai.vn
Chương trình giáo dục phổ thông mới có những môn học gì? Theo GS Nguyễn Minh Thuyết, Tổng chủ biên Chương trình giáo dục phổ thông mới, nội dung chương trình được giảm tải, hình thành một số môn học mới mang tính tích hợp. Mục tiêu của chương trình mới là giúp hình thành năng lực, phẩm chất nên sắp tới, cách dạy học, kiểm tra, đánh giá học sinh cũng phải thay đổi...