Lỗ Tấn – lá cờ đầu của văn học cách mạng trung quốc và tấn bi kịch cuộc đời
Nền văn học Trung Quốc nổi tiếng với bề dày hàng nghìn năm. Mỗi một thời kì, đất nước ấy lại có những con người kiệt xuất, đại diện cho cả tinh hoa văn hóa dân tộc.
Một trong số đó là Lỗ Tấn – lá cờ đầu của văn học cách mạng. Trong cuộc đời của mình, Lỗ Tấn không ngừng phát triển và cho ra đời những tác phẩm hùng ca, gắn liền với hiện thực xã hội Trung Hoa thời loạn lạc. Ngòi bút của ông không chỉ phê phán hiện thực xã hội mà còn cổ vũ cho tinh thần đấu tranh giành độc lập dân tộc. Tuy vậy, nhà văn lớn được bao người nể trọng cũng không thể tránh khỏi những tấn bi kịch trong cuộc đời mình.
Từ sau ngày nước CHND Trung Hoa ra đời, tất cả các từ điển hoặc sách báo chính thống nước này đều viết Lỗ Tấn là chủ tướng của cách mạng văn hóa Trung Quốc, nhà văn học vĩ đại, nhà tư tưởng và nhà cách mạng vĩ đại. Ngoài ra năm 1938 Mao còn nói “Lỗ Tấn là Thánh nhân bậc nhất Trung Quốc, Khổng Tử là thánh nhân của xã hội phong kiến, Lỗ Tấn là thánh nhân của Trung Quốc Mới”.
Nhưng tất cả những lời ca tụng kể trên đều xuất hiện sau khi ông đã qua đời. Trong thực tế, sinh thời Lỗ Tấn sống không dễ chịu chút nào. Đời sống gia đình nặng nề do không có tình cảm với vợ rồi tiếp đến sự bất hòa với người em trai tài hoa ông hằng quý mến. Trong xã hội ông cũng bị không ít văn nhân công kích, dù họ đều thừa nhận văn tài hơn người của ông. Thái độ căm thù xã hội cũ, bi quan với hiện tại, sự hăng hái công kích các thói hư tật xấu của người đời bằng giọng văn châm biếm cay nghiệt thể hiện trong các tác phẩm của Lỗ Tấn đã phản ánh các bi kịch mà ông từng trải qua.
Có thể nói đời Lỗ Tấn là một chuỗi bi kịch. Cha chết khi ông mới 16 tuổi; là con trưởng, ông phải thay cha trông nom mẹ và các em. Vì thế mặc dù là người dẫn đầu trào lưu chống lại các hủ tục của xã hội phong kiến, nhưng chính ông lại buộc phải tuân theo các hủ tục ấy. Năm 25 tuổi (1906), mới sang Nhật du học được 4 năm Lỗ Tấn nhận được điện báo “Mẹ ốm về ngay”. Ông tức tốc về quê. Đến nơi thì thấy trong nhà treo đèn kết hoa, thì ra bà mẹ gọi về bắt lấy vợ. Cô dâu bà chọn là Chu An, cùng quê Thiệu Hưng tỉnh Triết Giang. Để chiều lòng mẹ và biết rằng có phản đối cũng vô ích, ông đành chấp nhận tất cả. Đến lúc cưới, ông mới biết mặt vợ – một cô gái thấp nhỏ, mặt dài, trán dô, bó chân, tướng mạo đã xấu mà lại không có chút nào sức sống của người thiếu nữ có thể thu hút đàn ông; chưa kể còn mù chữ và hơn ông 3 tuổi. Chu An hoàn toàn không xứng đôi với Lỗ Tấn, một thanh niên tân học đang háo hức tiếp nhận văn minh phương Tây.
Bị ép lấy người mình không yêu, Lỗ Tấn dứt khoát không chịu coi Chu An là vợ. Đêm tân hôn, chú rể không ngủ cùng cô dâu. Bốn hôm sau ông lên đường trở lại Nhật, mang theo em là Chu Tác Nhân vừa thi đỗ lấy được học bổng du học Nhật.
Về sau ai hỏi về chuyện này Lỗ Tấn đều nói: Đây là mẹ tôi lấy con dâu chứ đâu phải chuyện của tôi. Quả thật mẹ ông đã lấy được cô con dâu chăm nom bà hết sức tận tình, chu đáo mặc dù Chu An suốt đời sống trong sự ghẻ lạnh của chồng.
Năm 1909 Lỗ Tấn về nước đi làm, có sống ở quê nhà cùng mẹ và vợ một thời gian ngắn (tháng 8-9/1909 và tháng 7/1910-2/1912), nhưng cũng hoàn toàn ly thân với vợ.
Vụ hôn nhân cưỡng ép này khiến Lỗ Tấn càng nhận thức sâu sắc hơn nỗi khổ của người Trung Quốc do các hủ tục của xã hội phong kiến đem lại.
Năm 1919 Lỗ Tấn cùng Chu Tác Nhân quyết định mua nhà ở số 11 ngõ Bát Đạo Loan (Bắc Kinh), đón mẹ, vợ và gia đình hai em trai lên ở. Vợ chồng ông vẫn ngủ mỗi người một phòng. Tuy vậy, không khí ấm cúng cả đại gia đình cùng đoàn tụ dưới một mái nhà làm cho Lỗ Tấn đỡ buồn vì chuyện ly thân với vợ.
Nhưng ngày tháng tốt đẹp không được bền lâu. Bốn năm sau, do mâu thuẫn với vợ chồng Chu Tác Nhân, ông buộc phải đưa mẹ và vợ đến ở nhờ nhà người quen tại số nhà 61 ngõ Chuyên Tháp. Tháng 5/1924 ông mua nhà ở ngõ Tây Tam Điều, cũng không rộng rãi, đón mẹ và vợ về đây, vẫn ly thân.
Mẹ ông kể: Suốt ngày hai vợ chồng Lỗ Tấn chỉ nói với nhau ba từ. Buổi sáng vợ gọi chồng dậy, chồng đáp “Ờ”; đến bữa ăn, vợ gọi, chồng cũng đáp “Ờ”; buổi tối vợ đi nằm sớm nên hỏi có khóa cổng không, chồng đáp “Có” hoặc “Không”. Chỉ khi nào vợ xin tiền thì chồng mới nói thêm vài câu như “Cần bao nhiêu ?” hoặc bảo nên mua thứ này thứ nọ, nhưng chuyện ấy mỗi tháng chỉ xảy ra một hai lần. Về sau bà Chu An kể lại: “Mẹ chồng tôi cứ trách tôi không có con, nhưng suốt năm ông ấy không nói với tôi câu nào thì sao mà có con được”.
Lỗ Tấn từng khuyên vợ đi học chữ, nhưng Chu An không chịu học. Ông bảo: Thế thì mỗi người một nơi vậy, hay mình về nhà mẹ đẻ mà ở. Chu An tỏ ý suốt đời chỉ ở với mẹ chồng.
Sau Phong trào Ngũ Tứ, trong trào lưu phá bỏ hủ tục cũ, không ít nhà trí thức từng bị hành bởi kiểu hôn nhân hủ lậu đều tự giải thoát bằng cách li dị vợ, như hai nhà thơ Quách Mạt Nhược và Uất Đại Phu. Có người khuyên Lỗ Tấn làm thế nhưng ông không nghe. Dân Thiệu Hưng thời ấy coi phụ nữ bị chồng li dị là loại người bỏ đi, họ không dám về nhà bố mẹ đẻ vì sợ bị khinh ghét; có người quẫn trí tự tử. Lỗ Tấn đã cân nhắc kỹ việc này, ông đành chịu suốt đời sống độc thân chứ không nỡ để vợ rơi vào cảnh khốn cùng ấy.
Rốt cuộc Lỗ Tấn vẫn tìm thấy tổ ấm của mình. Năm 1925, ông nhận được thư của Hứa Quảng Bình, cô học trò kém ông 17 tuổi từng tích cực tham gia phong trào Ngũ Tứ, có tư tưởng cách mạng và hiểu biết nhiều. Qua đọc tác phẩm của Lỗ Tấn mà cô cảm phục và đi đến chủ động yêu ông.
Năm 1926 Lỗ Tấn về làm việc tại Hạ Môn; để vợ và mẹ ở lại Bắc Kinh. Từ tháng 10/1927 ông chung sống với Hứa Quảng Bình. Biết tin ấy, Chu An nói với hàng xóm: “Trước đây tôi đều muốn hầu hạ ông ấy thật chu đáo, mọi việc nhất nhất nghe ông ấy, tin rằng như vậy chắc là về sau mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Tôi chẳng khác gì con ốc sên bò từng tí từng tí lên bức tường, mong rằng sẽ có ngày lên đến chỗ cao nhất. Nhưng bây giờ thì hết hơi sức rồi. Tôi có tốt đến mấy với ông ấy cũng hoài công.”
Cho tới trước ngày qua đời, Lỗ Tấn có lên Bắc Kinh thăm mẹ hai lần vào tháng 5/1929 và tháng 11/1932, dĩ nhiên vẫn ly thân với Chu An. Suốt đời ông gửi tiền nuôi mẹ và Chu An. Sau khi ông mất, Hứa Quảng Bình tiếp tục làm bổn phận ấy.
Hứa Quảng Bình sống với Lỗ Tấn được 12 năm, họ có một con trai sinh năm 1929 đặt tên là Chu Hải Anh. Bà Hứa giúp ông rất nhiều trong việc chép bản thảo, thu xếp chỉnh lý sách vở, thư từ, giấy tờ của ông. Suốt hơn 30 năm sau khi ông mất, bà vẫn tiếp tục dùng ngòi bút bảo vệ ông. Năm 2010, Trung Quốc xuất bản cuốn Hồi ký về Lỗ Tấn của Hứa Quảng Bình. Qua đó người ta càng hiểu thêm về cuộc sống nội tâm của ông.
Vì chuyện hôn nhân bi đát như thế nên các tác phẩm của Lỗ Tấn rất ít nói tới tình yêu và hạnh phúc gia đình, nếu nói tới thì đều có kết cục thất vọng, bi thảm. Nỗi khổ chuyện hôn nhân với Chu An làm cho ông nhìn đời khá bi quan, song cũng vì thế mà ông quan sát cuộc sống của người dân sâu sắc hơn. Thập niên 30 nhà văn Phùng Tuyết Phong đến thăm Mao Trạch Đông tại chiến khu Thụy Kim có kể cho Mao nghe chuyện sau: Một người Nhật từng nói cả Trung Quốc chỉ có hai người rưỡi hiểu được dân mình, một là Lỗ Tấn và một là Tưởng Giới Thạch; nửa người kia là Mao Trạch Đông. Nghe xong, Mao cười ha hả.
Bi kịch huynh đệ
Một bi kịch lớn nữa trong đời Lỗ Tấn là sự tan vỡ tình huynh đệ với Chu Tác Nhân. Ông có hai em trai kém mình 4 và 7 tuổi. Em lớn Chu Tác Nhân rất thông minh, văn tài không kém anh. Phùng Tuyết Phong từng nói Chu Tác Nhân là nhà văn hàng đầu Trung Quốc. Lỗ Tấn vốn quý người tài, vì thế ông rất nâng đỡ em mình. Trong thời gian ở Nhật, hai anh em cùng dịch và xuất bản Tập tiểu thuyết nước ngoài, lấy tên tác giả là Anh em họ Chu. Giới nhà văn Nhật rất phục văn tài của hai anh em Lỗ Tấn.
Năm 1909, Chu Tác Nhân lấy vợ là Vũ Thái Tín Tử (người Nhật, tên Trung Quốc là Chu Tín Tử), nguyên là cô giúp việc nấu cơm của nhóm du học sinh Trung Quốc ở Sendai. Sau khi lấy vợ, Chu Tác Nhân trở nên túng thiếu do tiền học bổng không đủ nuôi hai vợ chồng. Vì muốn em học thành tài và được sống hạnh phúc, Lỗ Tấn đành về nước làm giáo viên dạy ở trường Sư phạm Triết Giang, tiết kiệm dành dụm tiền lương gửi sang Nhật giúp em, thậm chí giúp cả gia đình Tín Tử.
Chu Tác Nhân về nước năm 1911, ở Thiệu Hưng với mẹ; năm sau thì vợ sinh con đầu lòng. Hàng tháng Lỗ Tấn đều gửi về Thiệu Hưng 100 đồng giúp mẹ, vợ và các em. Năm 1917, Thái Nguyên Bồi (quen Lỗ Tấn) được cử làm Hiệu trưởng Đại học Bắc Kinh, nhờ Lỗ Tấn giới thiệu, Chu Tác Nhân được bổ nhiệm làm giáo sư khoa Trung văn trường này và chuyển lên ở Bắc Kinh.
Thời kỳ Ngũ Tứ, hai anh em sát cánh bên nhau chiến đấu trong phong trào Tân Văn hóa, trở thành nòng cốt phong trào này.
Sau khi mua nhà ở Bắc Kinh, cuối năm 1919 cả đại gia đình đều lên đây ở, gồm bà mẹ, vợ chồng Lỗ Tấn, vợ chồng Chu Tác Nhân và Chu Kiện Nhân; ngoài ra còn có cả người em trai của Tín Tử. Tác Nhân và Kiến Nhân lấy vợ là hai chị em người Nhật và đều đã có con nhỏ. Hơn chục người ở cùng nhà, ăn cùng bếp. Vì con dâu cả Chu An mù chữ nên con dâu thứ hai là Tín Tử thay bà mẹ quản lý toàn bộ việc chi tiêu của đại gia đình.
Phần lớn phụ nữ Nhật đều nhu mì, riêng Tín Tử lại đanh đá, chua ngoa và luôn lên mặt ta đây người Nhật, khinh thường người Trung Quốc. Có người nói cô ta mắc chứng hysteria. Một lần cãi nhau với chồng, Tín Tử lăn ra giãy đành đạch giả chết, em trai và em gái cô xúm vào mắng nhiếc Tác Nhân, rồi còn kéo Tác Nhân đến Lãnh sự quán Nhật để “nói chuyện”. Từ đó trở đi Chu Tác Nhân đành ngoan ngoãn để vợ muốn làm gì thì làm, cốt sao mình được yên thân đọc sách và viết lách.
Tín Tử tuy xuất thân nhà nghèo nhưng lại ưa lối sống hưởng lạc, đài các phô trương, sĩ diện hão, tiêu tiền như rác. Có bữa đầu bếp nấu không ngon, cô ta bắt đổ đi nấu món khác. Trong nhà thuê ngót chục người giúp việc: quản gia, đầu bếp, bảo mẫu, đầy tớ, kéo xe (nhà có 3 xe tay). Tín Tử đi đâu cũng đi ô tô, rất tốn kém vì ngày ấy xe hơi còn hiếm và đắt. Mọi thứ đồ dùng đều chỉ mua ở cửa hiệu của người Nhật. Nhà có ai ốm đau dù trẻ con sốt nhẹ cũng mời bác sĩ Nhật, mỗi lần mời tốn trên chục bạc. Cách tiêu pha hoang đàng ấy làm cho Lỗ Tấn rất khó chịu, vì từ xưa ông quen sống tiết kiệm, giản dị.
Hàng tháng Lỗ Tấn lĩnh lương đều đưa hết cho em dâu. Lương viên chức hồi ấy rất cao, thu nhập của hai anh em cộng lại mỗi tháng không dưới 600 đồng (Kiến Nhân chưa có việc làm), nhiều hơn cả chi tiêu trong một năm của gia đình 5 người bình thường. Tuy thế Tín Tử vẫn kêu thiếu tiền. Lỗ Tấn phải đưa cả tiền tiết kiệm của mình cho em dâu, thậm chí có lần phải đi vay bạn bè. Là anh cả, lại có mẹ ở đây nên ông đành nhẫn nhịn chịu đựng, hy sinh tất cả, miễn sao đại gia đình hòa thuận.
Người đông, ở chung ăn chung lại túng tiền tiêu như vậy không thể không xảy ra chuyện va chạm. Chu Tác Nhân vốn có tâm lý nô lệ cho là người Nhật giỏi hơn người mình, không dám can ngăn vợ. Tín Tử ghét vợ chồng Lỗ Tấn, chỉ muốn chiếm cả tòa nhà, thường không cho lũ con mình ăn kẹo bác cả mua cho và dặn chúng không được vào chơi phòng bác cả.
Năm 1921, em út Kiến Nhân xin được việc ở Thượng Hải nên phải về Thượng Hải, vợ là Phương Tử không chịu đi theo. Về sau Chu Kiến Nhân chung sống với một phụ nữ khác và tham gia cách mạng. Mối quan hệ với Phương Tử tan vỡ tới mức ông phải bỏ vợ, từ con. Cuối đời ông cũng có cuộc sống êm ấm, làm tới chức Phó Chủ tịch Quốc hội Trung Quốc.
Trong nhà bây giờ hai cô con dâu chị em người Nhật tha hồ làm mưa làm gió; bà mẹ và con dâu cả Chu An quê mùa không có tiếng nói gì. Lỗ Tấn có lần khuyên em bảo vợ chi tiêu nên có kế hoạch, nhưng Tác Nhân lờ đi không dám nói gì; thậm chí còn nghe vợ, định đón bố mẹ vợ từ Nhật sang Bắc Kinh phụng dưỡng. Lỗ Tấn không tán thành, mâu thuẫn giữa hai anh em ngày càng sâu sắc.
Vì đều là trí thức cao cấp có tiếng tăm trong xã hội, cho nên tuy bất đồng với nhau nhưng hai người đều không để lộ ra ngoài. Nhật ký của họ (sau này mới công bố) đều viết những lời rất tốt về nhau. Nhưng khi cái ung nhọt sưng to quá thì nó tự vỡ.
Nhật ký Lỗ Tấn ngày 14/7/1923 viết: “Tối nay đổi thành ăn trong phòng mình, một mâm riêng, việc này đáng ghi lại.” Nghĩa là từ hôm ấy ông không được ăn chung với đại gia đình nữa. Tất cả là do cô em dâu sắp đặt.
Nhật ký ngày 19 viết “Khởi Mạnh (tức Tác Nhân) tự mang thư đến, sau mình có hỏi, không được trả lời.”. Nghĩa là đọc thư xong, Lỗ Tấn muốn em nói rõ hơn, nhưng bị từ chối.
Mãi đến năm 1988, bức thư này mới được công bố:
“Tiên sinh Lỗ Tấn: Tối hôm qua tôi mới biết…nhưng thôi, bất tất phải nói chuyện cũ. Tôi không phải là tín đồ Kitô Giáo, nhưng may sao vẫn chịu đựng nổi, cũng chẳng muốn trách ai cả …
Thế gian này mọi người đều đáng thương. Giấc mộng Tường Vi ngày trước của tôi té ra là hư ảo, có lẽ cái giờ đây nhìn thấy mới là cuộc đời thực sự. Tôi muốn đính chính tư tưởng của mình, trở lại cuộc sống mới. Sau này xin chớ đến nhà sau, không còn lời nào nữa. Mong ông yên tâm, tự giữ mình. Tháng 7 ngày 18, Tác Nhân.”
Chuyện gì tối qua Tác Nhân mới biết? Đây là câu hỏi mãi mãi không có giải đáp. Giấc mộng Tường Vi (Rose’s Dream), là nói Tác Nhân từng mơ ước xây dựng “Thôn xóm mới” ở Trung Quốc, nơi người dân sống hòa thuận với nhau. Tác Nhân muốn nói thì ra mơ ước mấy anh em mình được sống chung một nhà chỉ là chuyện ảo tưởng. Nhà sau là nói nhà ở của vợ chồng Tác Nhân. Nhà số 61 Bát Đạo Loan có 3 dãy nhà, Lỗ Tấn ở nhà ngoài, bà mẹ ở nhà giữa, Chu Tác Nhân ở nhà trong cùng, cách một cái vườn trồng hoa.
Ngày 2/8, Lỗ Tấn đưa mẹ và vợ dọn đến ở tạm tại ngõ Chuyên Tháp. Ông ghi nhật ký: “Mưa. Sau ngọ tạnh. Chiều đưa vợ dọn đến số 61 ngõ Chuyên Tháp.” Nhật ký của Tác Nhân cùng ngày viết: “Sáng nay vợ chồng L. dọn đến ngõ Chuyên Tháp.” L. tức Lỗ Tấn, rõ ràng, Chu Tác Nhân không muốn nhắc tới tên anh mình nữa.
Nhật ký Lỗ Tấn ngày 11/6/1924 cho biết: Chiều hôm ấy ông quay lại nhà cũ lấy sách vở và đồ dùng thì bị vợ chồng Tác Nhân te tát chửi bới và đánh ông. Tín Tử dùng lời lẽ thô tục, bịa đặt nhiều chuyện nói xấu ông. Lỗ Tấn phải chống trả, họ mới rút lui.
Sau này bà mẹ có nói hai anh em bất hòa, lỗi tại Tác Nhân. Bà than thở: Giá mà mình đừng sinh ra cái thằng ấy thì phải! Bà cũng nói thật lòng: Tách ra ở riêng thế này có lợi cho đại tiên sinh (tức Lỗ Tấn). Đúng thế, từ nay tiền của Lỗ Tấn không bị Tín Tử phung phí nữa, nhờ thế về sau ông có điều kiện ủng hộ rất nhiều tiền cho cách mạng.
Trước khi qua đời, Lỗ Tấn viết trong chúc thư gửi mẹ là ông bị lũ đàn bà người Nhật trong nhà đuổi đi, chết cũng không nhắm được mắt.
Suốt đời Lỗ Tấn vẫn quan tâm tới Tác Nhân. Ông bảo Kiện Nhân: Bây giờ “Bát Đạo Loan chỉ còn một người Trung Quốc mà thôi”, ý nói chỉ còn Tác Nhân và ba chị em người Nhật của Tín Tử. Nói về Tác Nhân, ông chỉ nhận xét một từ “Hôn” (u mê) mà chưa hề trách cứ điều gì. Đúng thế. Về sau Tác Nhân ngày càng u mê, ngày càng xa rời Lỗ Tấn về tư tưởng. Năm 1939 Chu Tác Nhân nhận lời mời của chính phủ bù nhìn Uông Tinh Vệ thân Nhật làm Giám đốc Thư viện ĐH Bắc Kinh rồi Giám đốc Viện Văn học trường này. Năm 1941 lại nhận làm Ủy viên Ủy ban Chính vụ Hoa Bắc kiêm Đốc biện Tổng Nha Giáo dục trong chính phủ bù nhìn.
Tháng 12/1946, chính phủ Tưởng Giới Thạch bắt giam Chu Tác Nhân, kết tội làm Hán gian cho Nhật, án tù 14 năm, sau giảm còn 10. Khi Lý Tôn Nhân lên làm Tổng thống Trung Hoa Dân quốc (1/1949) chủ trương tha toàn bộ tù chính trị, Chu Tác Nhân được trả tự do. Ông không nghe lời khuyên của Hồ Thích đi Đài Loan mà ở lại đại lục.
Tháng 8/1949, trước ngày thành lập nước CHND Trung Hoa, Chu Tác Nhân về nhà cũ tại Bát Đạo Loan. Ông viết thư lên Thủ tướng Chu Ân Lai biện bạch cho quá khứ của mình, xin không bị coi là Hán gian và xin giữ lại nhà cũ. Chủ tịch Mao đồng ý, với lý do bây giờ rất hiếm người biết Cổ Hy Lạp ngữ, nên để Chu Tác Nhân chuyên dịch sách cổ Hy Lạp.
Chu Tác Nhân được làm việc ngoài biên chế tại NXB Nhân dân, hàng tháng được trả nhuận bút cố định rất hậu (600 tệ, gấp đôi lương giáo sư ĐH). Ngoài việc dịch nhiều tác phẩm văn học cổ Nhật Bản và cổ Hy Lạp với chất lượng dịch thuật rất cao, ông còn xuất bản “Quê nhà Lỗ Tấn”, “Các nhân vật trong tiểu thuyết Lỗ Tấn” và “Thời thanh niên của Lỗ Tấn”. Do bị tước đoạt quyền lợi chính trị nên các tác phẩm của Chu Tác Nhân không được dùng tên thật. Trong Cách mạng Văn hóa, ông bị đấu tố đánh đập rất khổ và đột tử năm 1967.
Sau khi tuyệt giao, Lỗ Tấn và Chu Tác Nhân không gặp nhau lần nào. Có điều họ ứng xử rất văn minh, không bao giờ nói xấu nhau, không bao giờ nói về lý do bất hòa. Trong các sách viết về anh mình, Tác Nhân không hề đả động đến chuyện họ chia tay nhau. Cho tới nay, dư luận Trung Quốc vẫn đồn đoán về nguyên nhân mối bất hòa này. Chu Kiến Nhân và nhiều người khác cho rằng đây hoàn toàn chỉ là chuyện gia đình, và có liên quan đến vợ Chu Tác Nhân, chứ không phải vấn đề bất đồng tư tưởng. Nhưng cụ thể là chuyện gì thì không ai biết. Mối bất hòa giữa Lỗ Tấn với Chu Tác Nhân được coi là một trong mười nghi án lớn nhất của lịch sử văn học Trung Quốc.
Lỗ Tấn mất năm 55 tuổi. Bà Chu An mất năm 69 tuổi (1947), Hứa Quảng Bình – 70 tuổi (1968). Hai em ông đều thọ: Chu Tác Nhân – 82 tuổi, Chu Kiến Nhân – 96. Trong ba anh em, Lỗ Tấn có cuộc đời tình cảm lận đận hơn cả, tuy rằng sau khi mất ông được tôn vinh cao nhất trong làng văn Trung Quốc.
Theo người nổi tiếng, tia sáng
Thời gian tồn tại hay không tồn tại: Chúng ta phải làm gì để sống chậm lại và ý nghĩa hơn?
Một đứa bé, với rất ít ký ức tự truyện sẽ sống liên tục trong hiện tại. Chúng không thể tưởng tượng ra được bản thân trong một tương lai khác biệt, nơi một số thứ hoặc thậm chí là tất cả mọi thứ sẽ thay đổi.
Những ngày đầu tiên của năm 2020, " thời gian" có lẽ là khái niệm đang được mọi người nhắc đến nhiều nhất. Mười năm vừa rồi bạn đã làm được những gì, đã bỏ lỡ điều gì và có cảm thấy tiếc nuối?
Một thực tế phũ phàng là thời gian đã trôi qua không thể lấy lại được, cho dù đó chỉ là 1 tiếng đồng hồ hay cả một thập kỷ. Hiện tại của bạn sẽ trở thành quá khứ ngay sau khi nó xảy ra. Ngày hôm nay sẽ trở thành thành ngày hôm qua sau một vài tiếng nữa.
Nếu bạn sống ở một vùng khí hậu ôn hòa, mỗi năm bạn sẽ thấy các mùa đến và đi. Một thập kỷ đã trôi qua và càng trưởng thành, chúng ta càng nhận thức được những dấu ấn của năm tháng in hằn lên mọi thứ.
Mặc dù vậy, sự thật là không có một nhà khoa học thần kinh nào từng tìm ra được chiếc đồng hồ phía trong não bộ. Điều đó khiến họ phải tự hỏi: " Liệu thời gian có thực hay không?". Chúng ta phải làm gì để sống chậm lại và có một cuộc đời ý nghĩa hơn, bất chấp bản chất khoa học hay vật lý của thời gian?
Thật kỳ lạ! Rõ ràng bạn có thể cảm nhận được thời gian tồn tại. Nếu ai đó nói rằng họ sẽ đến sau 5 phút nữa, bạn sẽ ước chừng được khi nào họ thực sự đến. Bạn rút điện thoại ra khỏi túi và tranh thủ lướt Facebook một lúc, và sau đâu đó 4 phút rưỡi, trực giác sẽ mách bảo bạn tự động bỏ điện thoại vào túi, não bộ bạn bắt đầu trông ngóng người đó trong 30 giây còn lại.
Thời gian rõ ràng phải là thứ gì đó tồn tại, bởi chúng ta đều có ý thức khi một tuần vừa trôi qua, một tháng hoặc một năm. Thời gian là một thứ gì đó hiển nhiên và rõ ràng: Nó đang trôi qua, với một tốc độ không đổi như dao động của miếng thạch anh làm rung kim giây đồng hồ. Thời gian trôi theo một hướng cụ thể, từ quá khứ đến tương lai và nó có thể đo lường được.
Các nhà khoa học nghi ngờ sự tồn tại của thời gian, không chỉ trên khía cạnh sinh học, mà là cả trong văn hóa. Chẳng hạn, họ phát hiện ra trong ngôn ngữ của người Amondawa, một bộ lạc sống sâu và tách biệt trong khu vực rừng Amazon ở Brazil không hề có từ " thời gian".
Một số người cho rằng bộ lạc Amondawa không hề có ý tưởng về thời gian như một thứ gì đó đánh dấu cho các sự kiện xảy ra. Có nhiều cuộc tranh luận vẫn đang âm ỉ cháy xung quanh phát hiện này, kể từ khi nó được công bố vào năm 2011.
Liệu rằng nó có nên dừng lại ở một nghiên cứu ngôn ngữ học thông thường, hay quả thực chúng ta đang nhận thức thời gian theo những cách khác nhau?
Thật khó có thể biết được tổ tiên của chúng ta trước đây từng nghĩ về thời gian như thế nào. Bởi, các thí nghiệm về nhận thức thời gian chỉ mới được tiến hành trong khoảng 150 năm trở lại đây.
Những gì chúng ta biết là Aristotle từng xem hiện tại như một thứ gì đó liên tục thay đổi. Và đến năm 160, triết gia Marcus Aurelius khi đã là hoàng đế La Mã từng mô tả thời gian như một dòng sông của những sự kiện trôi qua. Cho đến nay, nhiều người vẫn sẽ nhất trí với những ý tưởng này.
Nhưng vật lý đã bắt đầu kể một câu chuyện khác từ thế kỷ 20. Mặc cho có bao nhiêu người tin rằng thời gian là một thứ tồn tại, là thứ mà họ cảm thấy nó đang trôi về một hướng, một số nhà khoa học bắt đầu không đồng ý.
Albert Einstein cùng với thuyết tương đối đã làm rung chuyển các khái niệm chúng ta từng có về thời gian. Ông chứng minh cho chúng ta thấy rằng thời gian, thực ra, được tạo nên bởi vật chất. Thời gian không tồn tại từ đầu một cách độc lập. Nó không được vẽ ra trước khi vũ trụ hình thành, để đứng đó chờ đợi mọi sự kiện được ghi vào trục hoành của mình.
Einstein cũng đã chứng minh rằng thời gian là tương đối. Nó trôi qua chậm hơn đối với những đối tượng đang di chuyển nhanh hơn hoặc ở gần một đối tượng lớn hơn. Các sự kiện hóa ra không đồng thời xảy ra trên một trục thời gian duy nhất. Không thể có một " hiện tại" xảy ra cùng lúc cho cả vũ trụ như vật lý thời đại Newton từng thừa nhận.
Đúng là nhiều sự kiện trong vũ trụ có thể được sắp xếp theo thứ tự - nhưng thời gian không phải lúc nào cũng được chia gọn vào 3 ô: quá khứ, hiện tại và tương lai. Một số phương trình vật lý có thể đúng ngay cả khi thời gian quay ngược lại.
Điều đó khiến một số nhà vật lý lý thuyết, điển hình như Carlo Rovelli, suy đoán rằng thời gian không trôi, thậm chí nó không tồn tại. Thời gian chỉ là một ảo ảnh mà thôi.
Mặc dù vậy, không mấy người hiểu được những suy luận của Rovelli. Bởi dù cho thời gian không tồn tại thật đi chăng nữa, nhận thức về thời gian - thứ thời gian mà bạn cảm nhận thấy từ các hoạt động thần kinh của mình là có thật.
Đó là lý do tại sao các bằng chứng vật lý trở nên mâu thuẫn với cách chúng ta cảm nhận cuộc sống. Chúng ta đang chia sẻ và cùng đồng ý về những khái niệm như " quá khứ" và " tương lai". Chúng phản ánh thực tế cuộc sống của chúng ta ở đây, trên Trái Đất.
Nhưng những phương trình vật lý là một bằng chứng không thể chối cãi, cho thấy " quá khứ" và " tương lai" mà chúng ta đang nói tới không thể áp dụng được cho toàn thể vũ trụ. Ở một nơi nào đó xa xôi, chúng sẽ trở thành những biến số vô dụng.
Có thể, giống như Newton từng cho rằng thời gian là tuyệt đối, niềm tin của chúng ta về cách thời gian làm việc cũng có thể đang gây ra nhiều hiểu lầm. Chúng ta có thể có một ý tưởng tốt hơn về thời gian được hay không?
Khi nhận thức về thời gian, chúng ta thường cùng nhau chia sẻ một khía cạnh của nó: Quá khứ. Nghĩ về về quá khứ của mình, bạn có thể tưởng tượng nó như một thư viện video khổng lồ, một kho lưu trữ mà chúng ta có thể thò tay vào để kéo ra những cuộn băng ghi lại từng sự kiện đã diễn ra trong cuộc đời mình.
Nhưng các nhà tâm lý học đã chứng minh rằng thứ được gọi là "trí nhớ tự truyện" đó hoàn toàn không giống vậy. Hầu hết chúng ta đều quên nhiều thứ hơn những gì chúng ta có thể nhớ, đôi khi quên đi toàn bộ một sự kiện đã xảy ra, mặc dù những người khác khăng khăng nói rằng chúng ta đã từng ở đó, vào thời điểm đó và đã làm việc đó.
Tất cả những lời nhắc nhở, mọi biện pháp gợi nhớ, một tấm ảnh hay thậm chí một video đôi khi vẫn thất bại trong việc kéo ký ức của chúng ta quay trở lại.
Và nhiều lúc, trong khi trải những ký ức của mình ra trước mặt, chúng ta sẽ làm một động tác: thay đổi nhận thức về chúng. Chẳng hạn như khi bạn biết vào khoảnh khắc đó, ai đó đã nói dối bạn về một việc nào đó. Khi chúng ta tái tạo lại sự kiện đó trong tâm trí, chúng ta sẽ thay đổi nó để phù hợp với thông tin mới mà chúng ta vừa nhận được.
Thậm chí, việc cấy vào đầu một ai đó những sự kiện chưa từng xảy ra trong đời họ cũng không khó như bạn tưởng. Elisabeth Loftus, một nhà tâm lý học đã dành nhiều thập kỷ để nghiên cứu về điều này.
Bằng những thí nghiệm tâm lý của mình, bà từng thuyết phục được những tình nguyện viên tin rằng họ đã làm những điều không tưởng, chẳng hạn như hôn một con ếch xanh khổng lồ hoặc đã từng gặp Bugs Bunny ở Disneyland trong quá khứ.
Ngay cả khi bạn kể lại một câu chuyện của mình cho bạn bè cùng nghe, nó cũng đã bị tam sao thất bản và quay trở lại ký ức theo một phiên bản khác.
Và tương lai cũng vậy, một sai lầm khác mà mọi người thường mắc phải là họ giả định việc tưởng tượng về tương lai hoàn toàn khác so với nghĩ về quá khứ. Trong thực tế, hai quá trình này được liên kết với nhau và cùng xảy ra trong một phần của não bộ.
Chúng ta sử dụng chỉ một phần bộ não để hồi tưởng quá khứ hoặc hình dung cuộc sống của chúng ta trong những năm sắp tới. Chính những ký ức mà chúng ta sở hữu đã cho phép chúng ta tưởng tượng ra tương lai.
Những cảnh tượng trong quá khứ được chúng ta dùng làm chất liệu, để vẽ ra một tương lai đến sớm mà chúng ta có thể xem trước nó qua khung cửa sổ tâm trí.
Kỹ năng này cho phép chúng ta lập kế hoạch và thử chạy các kịch bản khác nhau trong đầu, để xem chúng sẽ xảy ra như thế nào nếu chúng ta hành động theo những cách khác nhau. Cuối cùng, chúng ta sẽ chọn kịch bản chúng ta cho là đúng đắn nhất.
Những cảm giác tò mò xuất hiện trong tâm trí bạn lúc này là kết quả của những hoạt động mà bộ não của chúng ta thực hiện để đối phó với thời gian. Một đứa bé, với rất ít ký ức tự truyện sẽ chỉ sống liên tục trong hiện tại.
Nó thấy mình đang hạnh phúc. Nó thấy mình đang khóc. Nó thấy mình đói và thấy mình khổ sở. Một đứa nhỏ trải nghiệm tất cả những điều này, mà không cần nhớ lại tháng trước trời đã lạnh như thế nào hoặc lo lắng rằng nhiệt độ có thể giảm trong một vài ngày tới.
Nhưng khi lớn dần, đứa nhỏ bắt đầu phát triển những ý thức về bản thân. Và trong một giây phút nào đó, nó bắt đầu hiểu về thời gian, hiểu về sự khác biệt của hôm qua so với hôm nay, và hôm nay so với ngày mai.
Mặc dù ở độ tuổi đó, việc tưởng tượng ra bản thân trong tương lai vẫn là một thách thức. Nhà tâm lý học Janie Busby Grant nhận thấy rằng nếu bạn hỏi những đứa trẻ ba tuổi chúng sẽ làm gì vào ngày hôm sau, thì chỉ có một phần ba lũ trẻ có thể đưa ra một câu trả lời hợp lý.
Khi nhà tâm lý học Cristina Atance cho những đứa trẻ ăn một vài chiếc bánh mặn rồi hỏi chúng muốn ăn thêm bánh hay chuyển sang uống nước, chúng sẽ chọn uống nước. Chẳng có gì ngạc nhiên, ăn nhiều muối sẽ khiến lũ trẻ khát nước.
Nhưng khi Atance tiếp tục hỏi ngày mai chúng sẽ chọn gì, ăn bánh hay uống nước, hầu hết tiếp tục chọn uống nước. Nếu là bạn, bạn chắc chắn sẽ chọn ăn bánh, bởi một người trưởng thành biết rằng ngày mai chỉ uống nước thì họ sẽ đói. Và cơn khát sẽ sớm được giải quyết và không thể kéo dài cả ngày trời được.
Điều đó có nghĩa là những đứa trẻ rất nhỏ không thể tưởng tượng ra được bản thân trong một tương lai khác biệt với hiện tại, nơi mà chúng biết một số thứ hoặc thậm chí là tất cả mọi thứ sẽ thay đổi.
Vậy là ,trải nghiệm về thời gian liên tục được bồi tụ bởi tâm trí chúng ta, khi chúng ta lớn lên. Có nhiều yếu tố đóng vai trò rất quan trọng vào việc này - đó là trí nhớ, sự tập trung, cảm xúc và cảm giác mà chúng ta có về khoảng thời gian đã xảy ra, nó nằm ở đâu đó trong không gian này.
Nhận thức về thời gian khiến chúng ta liên tục tìm lại bản thân mình trong trí óc của chính mình. Thời gian không chỉ là trung tâm giúp chúng ta tổ chức cuộc sống, mà còn là trung tâm giúp chúng ta trải nghiệm cuộc sống ấy.
Tất nhiên, bạn có thể lập luận rằng việc chúng ta cảm nhận thời gian - theo trực giác hay theo các định luật vật lý - dù thế nào cũng chẳng quan trọng lắm.
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta vẫn đi bộ được trên một con đường bằng phẳng mà chẳng cần nhớ đến thực tế rằng Trái Đất có hình cầu. Chúng ta cũng vẫn nói rằng Mặt Trời mọc vào buổi sáng và lặn vào buổi tối, mặc dù chúng ta biết rằng đó thực sự là chuyển động tự quay của Trái Đất.
Sự thật là nhận thức của chúng ta đang không thể đuổi kịp những phát hiện mới trong khoa học - và chúng ta chỉ có thể tạo ra những trải nghiệm với thế giới bằng các giác quan chúng ta có.
Nhận thức của chúng ta về thời gian cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Chúng ta khó có thể thoát ra khỏi những cảm giác của mình về thời gian. Cho dù bạn có đọc và hiểu về thuyết tương đối bao nhiêu đi chăng nữa, dành ra 10 phút để đợi xe bus dường như vẫn lâu hơn so với 10 phút tán gẫu cùng bạn bè.
Nhưng có một điều tích cực, đó là ngay cả khi chúng ta không thể thay đổi nhận thức của mình về thời gian, chúng ta vẫn có thể thay đổi cách chúng ta nghĩ về nó. Cách bạn nghĩ về thời gian có thể khiến cho bạn thanh thản hơn với những quá khứ đã qua, với những sai lầm mà bạn từng mắc phải.
Thay vì coi quá khứ, hiện tại và tương lai là một đường thẳng, chúng ta có thể nhìn vào ký ức của mình như một nguồn tài nguyên cho phép chúng ta nghĩ về tương lai.
Điều này rất quan trọng. Con người có khả năng du hành thời gian trên khía cạnh tinh thần, tiến tới tương lai hoặc trở lại quá khứ tùy ý chúng ta tưởng tượng. Đó là năng lực khiến chúng ta trở nên khác biệt với các loài động vật khác, và cũng là sự khác biệt của một người trưởng thành so với một đứa trẻ.
Chúng ta, những người trưởng thành biết lên kế hoạch cho một tương lai hoặc lên kế hoạch để tạo ra một tác phẩm nghệ thuật. Chúng ta biết một nét vẽ sẽ gây ra những hậu quả nào ngay khi chúng ta đặt bút xuống, chúng ta biết sơn hay mực sẽ phai mờ ra sao để tìm cách vẽ ra một tác phẩm trường tồn trong cả thập kỷ.
Và chẳng phải một ý tưởng mới khi mà ký ức đóng một vai trò hết sức quan trọng. Aristotle từng nói rằng những ký ức không phải là những tài liệu lưu trữ cuộc sống chúng ta, chúng là những công cụ giúp chúng ta tưởng tượng về tương lai.
Điều này có nghĩa là trí nhớ tồi tệ- thứ mà bạn từng cho là một lỗ hổng khi không thể nhớ lại quá khứ một cách chính xác - thực tế lại là một lợi thế của chúng ta. Nếu các ký ức bị in chết vào những cuốn phim, lặp đi lặp lại trăm lần như một, thì việc tưởng tượng tương lai sẽ rất khó khăn.
Bây giờ, nếu tôi yêu cầu bạn hình dung về những sáng thứ hai không phải uể oải lái xe đến nơi làm việc. Thay vào đó, bạn ngồi trên một chiếc phao và trôi dọc theo một con kênh nhỏ màu xanh ngọc, hai bên bờ là hai rặng hoa nhiệt đới.
Bạn sẽ được dòng nước đưa dọc theo các toàn nhà văn phòng, và tới ngay trước cửa. Ở đó, những người bạn cấp 3 chứ không phải đồng nghiệp đang chào đón bạn bằng một ly cocktail.
Ngay lập tức, hầu hết các bạn sẽ có thể làm điều đó, không gặp chút khó khăn nào vì đó chỉ là tưởng tượng. Trí nhớ, bộ lưu trữ của bạn hoạt động linh hoạt đến mức vào mọi lúc, bạn có thể triệu tập những ký ức về con phố nơi bạn làm việc, về cảm giác chòng chành khi đi trên một dòng nước, về khuôn mặt của những người bạn cũ, hình ảnh của hoa nhiệt đới và cả ly cocktail.
Bạn không chỉ rút ra được tất cả những ký ức khác nhau, cách xa nhau hàng thập kỷ, mà sau đó bạn còn ghép được chúng lại để tạo ra một cảnh tượng mà bạn chưa từng chứng kiến hoặc thậm chí chưa từng được nghe thấy.
Về mặt lý thuyết, việc tưởng tượng ra một sáng thứ hai hư cấu như vậy có vẻ rất khó khăn. Nhưng trong thực tế, tính linh hoạt của ký ức đã giúp chúng ta làm điều đó một cách dễ dàng đến không tưởng.
Vì vậy, chúng ta không nên nguyền rủa trí nhớ của mình khi chúng làm chúng ta thất vọng. Trí nhớ được tạo ra để có thể thay đổi, để chúng ta có thể lấy hàng triệu mảnh ký ức từ những thời điểm khác nhau trong cuộc đời, kết hợp lại để mang đến cho chúng ta những khả năng tưởng tượng vô tận cho tương lai.
Trong thực tế, khi trí nhớ của chúng ta về quá khứ bị tổn hại, khả năng nghĩ về tương lai của chúng ta cũng chịu chung số phận. Eleanor Maguire, một nhà thần kinh học từng yêu cầu một nhóm người tưởng tượng ra tương lai, trong đó họ đứng giữa một bảo tàng.
Một số người nói họ sẽ đứng dưới mái trần hình vòm. Những người khác tưởng tượng ra sàn đá cẩm thạch. Nhưng những bệnh nhân bị mất trí nhớ không thể trả lời được cái bảo tàng họ sẽ đứng trong đó trông như thế nào.
Không còn nghi ngờ gì nữa, trí nhớ của chúng chúng ta đang cho phép chúng ta nghĩ về tương lai. Vì vậy, thay vì chỉ nghĩ về ký ức của chúng tôi như một kho lưu trữ video tiện dụng, chúng ta nên biết rằng trí nhớ của chúng ta có thể không hoàn hảo - và chúng ta nên chấp nhận rằng mọi người có thể có những ký ức rất khác nhau về cùng một sự kiện.
Ngoài việc thay đổi cách nghĩ về thời gian, có một điều nữa mà chúng ta có thể làm. Đó là câu hỏi vẫn thường được hỏi nhất khi mọi người đọc về thời gian: Làm thế nào chúng ta có thể khiến thời gian trôi chậm lại?
Càng trưởng thành, chúng ta càng cảm thấy thời gian trôi nhanh hơn để lại nhiều tiếc nuối hơn. Đến tuổi trung niên, một tuần và một năm có thể giống như vừa mới lướt qua. Nguyên tắc là một phần ý thức mà bạn cảm nhận về dòng chảy thời gian được quy định bởi số lượng ký ức mới mà bạn đã tạo ra trong đó.
Lấy ví dụ, khi vừa trở về từ một kỳ nghỉ bận rộn, bạn sẽ có cảm giác như thể mình vừa đi xa cả một thập kỷ. Đó là do hàng tá những ký ức mới mà bạn vừa tạo ra trong vài ngày rời khỏi công việc nhàm chán.
Nếu bạn cảm thấy cuộc sống đang trôi đi quá nhanh, thì đây có thể là dấu hiệu cho thấy bạn đang có một cuộc đời đáng sống.
Ngược lại, thời gian có vẻ trôi chậm hơn nếu bạn thấy buồn hoặc chán nản, hoặc khi bạn cô đơn, khi bị từ chối hoặc khi không ai muốn tìm tới bạn. Như Pliny the Younger đã viết vào năm 105: " Thời gian càng hạnh phúc dường như càng ngắn lại".
Vậy làm thế nào để kéo dài được quãng thời gian hạnh phúc của bạn? Vào một tối Chủ nhật chẳng hạn, khi bạn không thích cái cảm giác cả cuối tuần của mình đã trôi đánh vèo qua mất?
Có một điều bạn có thể làm vào lúc đó: Hãy liên tục tìm kiếm những trải nghiệm mới.
Thay vì chỉ đến đúng một quán cà phê đó, đúng rạp chiếu phim đó, hãy tham gia các hoạt động mới mẻ vào cuối tuần này, hãy ghé thăm những địa điểm hoàn toàn mới. Tất cả những điều thú vị sẽ khiến thời gian của bạn trôi đi rất nhanh - nhưng sau đó, vì bạn sẽ nằm xuống với nhiều kỷ niệm hơn, khi thức dậy vào sáng thứ hai, bạn sẽ thấy cuối tuần của mình rất dài và mỹ mãn.
Tất nhiên, không phải lúc nào chúng ta cũng có thể trốn thoát ra khỏi những vòng quay của cuộc sống. Nhưng nếu bạn có thể thay đổi cuộc sống của mình từng ngày, có thêm thật nhiều niềm vui ở hiện tại, thì sau này bạn sẽ cảm thấy những tháng năm đã trôi qua ấy rất dài.
Hãy thử mà xem, thậm chí chỉ một thay đổi nhỏ, như chọn một tuyến đường khác để đi làm thôi đã tạo nên sự khác biệt rồi. Công thức là: Bạn càng tạo ra nhiều kỷ niệm trong cuộc sống hàng ngày, thì cuộc đời sẽ càng viên mãn hơn khi bạn nhìn lại nó.
Nói tóm lại: Cách chúng ta trải nghiệm thời gian trong tâm trí sẽ không bao giờ bắt kịp được với những khám phá mới nhất về thời gian trong vật lý. Chúng ta đều cảm thấy thời gian trôi qua mình. Mặc dù không thể thay đổi cách não bộ nhận thức thời gian, chúng ta có những cách nghĩ tốt hơn khi đối mặt với nó.
Tuy nhiên, ngay cả khi đã thực hành được những cách nghĩ mới về thời gian, dòng chảy cuộc đời vẫn có thể bị cong vênh trong một số tình huống, khiến bạn thấy bất ngờ và mất kiểm soát.
Cuối cùng, có lẽ St Augustine đã đúng khi hỏi: " Sau tất cả thời gian là gì? Nếu không có ai hỏi tôi, thì tôi có thể đã biết. Nhưng khi tôi muốn giải thích nó cho ai đó, đột nhiên tôi lại thấy mình chẳng biết gì về thời gian".
Theo Trí thức trẻ
Sự thật gây 'sốc' về vị vua có thời gian trị vì ngắn nhất lịch sử nhân loại Vị vua Louis XIX của Pháp đi vào lịch sử nhân loại với kỷ lục ngồi trên ngai vàng 20 phút. Đây là sự kiện gây sốc dư luận lúc bấy giờ. Theo History, vua Louis XIX của Pháp đi vào lịch sử nhân loại với kỷ lục ngồi trên ngai vàng 20 phút. Đây là sự kiện gây sốc dư luận lúc...